Tin chuyên ngành

Châu Á: Nguy cơ xảy ra Chiến tranh lạnh mới vì dầu mỏ

Sự tăng cường quân sự của Mỹ và tiềm năng đáp trả mạnh mẽ của Trung Quốc là đề tài thảo luận sôi nổi của báo chí thời gian qua. Nhưng những tổn thương tăng lên của phía Trung Quốc và những lợi thế mới của Mỹ về dầu mỏ đang tạo nguy cơ xảy ra Chiến tranh lạnh mới tại châu Á vì dầu mỏ.

Trong nhiều thập kỷ, Mỹ phụ thuộc nặng nề vào dầu mỏ nhập khẩu, trong đó phần lớn từ Trung Đông và châu Phi, trong khi Trung Quốc hầu như có khả năng tự đáp ứng nhu cầu dầu mỏ. Năm 2001, Mỹ tiêu thụ 19,6 triệu thùng dầu/ngày, trong khi bản thân chỉ sản xuất được 9 triệu thùng. Sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài để bù khoản thiếu hụt 10,6 triệu thùng/ngày là một mối quan ngại lớn đối với các nhà hoạch định chính sách tại Washington. Mỹ đã phản ứng bằng cách thiết lập các mối quan hệ gần gũi và quân sự hóa hơn với các nước sản xuất dầu mỏ tại Trung Đông và thỉnh thoảng gây chiến để đảm bảo sự an toàn của các dây chuyền cung cấp của Mỹ.

Trong khi đó, năm 2001, Trung Quốc chỉ tiêu thụ 5 triệu thùng dầu/ngày, với sản lượng trong nước khoảng 3,3 triệu thùng/ngày và chỉ cần nhập khẩu 1,7 triệu thùng. Những con số này khiến ban lãnh đạo Trung Quốc ít quan ngại hơn về sự đáng tin cậy của các nhà cung cấp dầu mỏ nước ngoài của họ và do vậy Trung Quốc không cần phải bắt chước kiểu chính sách đối ngoại phức tạp lâu nay của Mỹ.

Biếm họa về nguy cơ xảy ra xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc vì dầu mỏ

Giờ đây, Chính quyền Obama kết luận rằng, bàn cờ đang bắt đầu thay đổi. Do nền kinh tế hưng thịnh của Trung Quốc, mức tiêu thụ dầu mỏ của Trung Quốc đang bùng nổ. Theo những dự báo mới đây của Bộ Năng lượng Mỹ, mức tiêu thụ dầu của Trung Quốc sẽ tăng lên 13,6 triệu thùng/ngày vào năm 2020 và 16,9 triệu thùng/ngày vào năm 2035, so với mức 7,8 triệu thùng/ngày của năm 2008. Nhưng sản lượng dầu mỏ của Trung Quốc chỉ tăng từ mức 4 triệu thùng/ngày năm 2008, lên 5,3 triệu thùng/ngày vào năm 2035. Do vậy, lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc sẽ tăng từ mức 3,8 triệu thùng/ngày năm 2008, lên 11,6 triệu thùng/ngày vào năm 2035, còn cao hơn mức dầu nhập khẩu của Mỹ.

Trong khi đó, Mỹ có thể hy vọng tình hình năng lượng được cải thiện. Nhờ việc tăng cường khai thác tại các khu vực dầu mỏ mới của Mỹ, trong đó có vùng biển Bắc cực tại ngoài khơi bang Alaska, vùng nước sâu tại Vịnh Mexico, các mỏ dầu đá phiến tại Montana, Bắc Dakota và Texas, lượng nhập khẩu dầu mỏ tương lai của Mỹ có thể sẽ giảm, cho dù mức tiêu thụ năng lượng có tăng lên.

Thêm vào đó, sản lượng dầu mỏ dường như sẽ tăng lên ở Tây bán cầu nhiều hơn ở Trung Đông và châu Phi, lại một lần nữa nhờ khai thác dầu tại những địa điểm khó khăn như dầu cát tại Canada, các mỏ dầu nằm sâu dưới Đại Tây Dương của Brazil và các khu vực giàu năng lượng ngày càng yên bình tại Colombia trước đây bị chiến tranh tàn phá.

Theo Bộ Năng lượng Mỹ, sản lượng tổng cộng của Mỹ, Canada và Brazil dự kiến sẽ tăng thêm 10,6 triệu thùng/ngày trong các năm từ 2009 đến 2035, mức tăng mạnh trong bối cảnh sản lượng dầu tại hầu hết các nơi trên thế giới được dự báo sẽ giảm.

Từ khía cạnh địa chính trị, tất cả những điều trên dường như đang tạo một lợi thế thực sự cho Mỹ, trong khi Trung Quốc đang ngày càng trở nên dễ bị tổn thương hơn trước những sự kiện xảy ra ở bên trong hoặc dọc các tuyến đường biển và các vùng đất xa xôi. Điều đó có nghĩa là Mỹ có khả năng dự tính việc dần nới lỏng những mối quan hệ quân sự và chính trị với các nước dầu mỏ Trung Đông, từng chi phối chính sách đối ngoại của Mỹ trong một thời gian quá dài và đã dẫn đến các cuộc chiến tranh tàn phá và tốn kém. Quả thực, như Tổng thống Obama đã nói, Mỹ hiện bắt đầu tập trung trở lại các khả năng quân sự của họ tại nơi khác. Ông Obama nói: “Sau một thập kỷ với 2 cuộc chiến tranh quá tốn kém, Mỹ hiện chuyển sự chú ý sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương”.

Đối với Trung Quốc, tất cả những điều này nói đến sự suy yếu chiến lược tiềm tàng. Mặc dù phần nào dầu nhập khẩu của Trung Quốc được vận chuyển bằng đường bộ, thông qua những đường ống dẫn dầu từ Kazakhstan và Nga, đa số lượng dầu nhập khẩu của họ được vận chuyển bằng tàu chở dầu từ Trung Đông, châu Phi và Mỹ Latinh qua các tuyến đường biển do Hải quân Mỹ khống chế. Quả thực, hầu như mọi tàu chở dầu sang Trung Quốc đều phải đi qua Biển Đông, vùng biển mà Chính quyền Obama hiện đang tìm cách đặt dưới một sự kiểm soát hải quân hiệu quả.

Bằng việc giành được sự chi phối hải quân tại Biển Đông và các vùng biển xung quanh, Chính quyền Obama rõ ràng muốn giành được ưu thế năng lượng của thế kỷ XXI, tương đương sự hăm dọa hạt nhân trong thế kỷ XX. Chính sách này ngụ ý rằng, Bắc Kinh đừng đẩy Mỹ quá xa, nếu không Mỹ sẽ phong tỏa các nguồn cung cấp năng lượng quan trọng của Bắc Kinh. Tất nhiên là điều này sẽ không bao giờ được nói công khai, nhưng người ta nhận thức được rằng các quan chức cao cấp Mỹ đang suy nghĩ theo hướng đó và có nhiều bằng chứng cho thấy Trung Quốc đang cực kỳ quan ngại về nguy cơ này, ví dụ như Bắc Kinh đang tìm cách xây dựng các đường ống tốn kém qua toàn bộ châu Á, tới khu vực lòng chảo biển Caspi.

Khi bản chất ngầm này của kế hoạch chiến lược mới của ông Obama ngày càng trở nên rõ ràng hơn, chắc chắn Ban Lãnh đạo Trung Quốc sẽ có những biện pháp để đảm bảo sự an toàn của các phao cứu sinh năng lượng của mình. Chắc chắn trong số những động thái này sẽ có những động thái kinh tế và ngoại giao, ví dụ như bao gồm cả những nỗ lực nhằm ve vãn các nước khu vực, cũng như các nước cung cấp dầu mỏ lớn như Angola, Nigieria và Arập Xêút. Nhưng các động thái khác sẽ mang bản chất quân sự. Việc tăng cường sức mạnh cho hải quân Trung Quốc, hiện vẫn nhỏ và lạc hậu so với các hạm đội của Mỹ và các đồng minh chính, dường như không tránh khỏi. Tương tự như vậy, các mối quan hệ quân sự chặt chẽ hơn giữa Trung Quốc và Nga, cũng như các thành viên của Tổ chức hợp tác Thượng Hải, là chắc chắn.

Thêm vào đó, Mỹ hiện đang châm ngòi cho sự khởi đầu một cuộc chạy đua vũ trang kiểu Chiến tranh lạnh tại châu Á, mà về lâu dài, không nước nào đủ sức theo đuổi. Tất cả những điều này dường như đang dẫn đến quan hệ căng thẳng hơn và sự nguy hiểm từ các vụ việc tương lai có liên quan đến các tàu của Mỹ, Trung Quốc và các đồng minh của họ. Những rủi ro và phí tổn tiềm tàng của một chính sách quân sự trên hết như vậy nhằm vào Bắc Kinh chắc chắn sẽ không hạn chế tại châu Á.

Nhằm thúc đẩy khả năng tăng sản lượng năng lượng tại Mỹ, Chính quyền Obama hiện đã phê chuẩn các kỹ thuật khai thác khoan ở Bắc cực, khoan ở khu vực nước sâu, chắc chắn sẽ dẫn đến các thảm họa môi trường ở trong nước. Sự ngày càng phụ thuộc vào dầu cát của Canada sẽ dẫn đến mức khí thải gây hiệu ứng nhà kính tăng lên. Tất cả những điều này đang đảm bảo rằng chúng ta sẽ sống trong một thế giới nguy hiểm hơn.

Mong muốn chuyển sự chú ý từ các cuộc chiến tranh tại Trung Đông để đối phó với những vấn đề lớn đang âm ỉ tại châu Á là có thể hiểu được, nhưng việc lựa chọn một chiến lược, nhấn mạnh đến như vậy vào sự chi phối và khiêu khích quân sự chắc chắn sẽ dẫn đến một phản ứng tương tự.

(Theo Petrotimes)

Bài viết liên quan