Theo GS.TS Lê Minh Phương - Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Bách khoa, để hiện thực hóa mục tiêu tự chủ công nghệ, các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhà nước trong ngành năng lượng như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) cần đóng vai trò “nhạc trưởng” trong việc đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu - phát triển, hình thành chuỗi giá trị nội địa và mở rộng hợp tác quốc tế. Đây được xem là bước đi then chốt, giúp Việt Nam chủ động trong chế tạo thiết bị biến đổi năng lượng, tiến tới nền công nghiệp hóa bền vững.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển dịch năng lượng mạnh mẽ với tốc độ phát triển điện mặt trời, điện gió thuộc nhóm cao nhất khu vực. Cùng với đó, nhu cầu về các thiết bị biến đổi năng lượng như inverter, bộ sạc xe điện, hệ thống lưu trữ năng lượng và thiết bị quản lý lưới điện thông minh ngày càng bùng nổ.
Hiện nay, hơn 90% thiết bị vẫn phải nhập khẩu từ châu Âu, Trung Quốc, Hàn Quốc, điều này đặt ra thách thức lớn về an ninh năng lượng cũng như năng lực công nghệ. Làm chủ công nghệ chế tạo thiết bị biến đổi năng lượng không chỉ là yêu cầu kỹ thuật mà còn mang tính chiến lược quốc gia. Việc này giúp Việt Nam đảm bảo an ninh năng lượng, giảm phụ thuộc nhập khẩu, đồng thời tạo nền tảng cho công nghiệp hỗ trợ, đổi mới sáng tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ cao.
Dự báo, đến năm 2035, tổng công suất năng lượng tái tạo của Việt Nam có thể đạt 150 GW, kéo theo nhu cầu hàng chục nghìn inverter công suất từ vài kW đến vài MW. Hiện tại, phần lớn thị trường do các hãng nước ngoài như Huawei, Sungrow, SMA hay Fronius chiếm lĩnh. Đây là khoảng trống tiền năng để doanh nghiệp trong nước phát triển sản phẩm hybrid inverter cho cả dân dụng, thương mại và công nghiệp.
Ở lĩnh vực xe điện, số lượng ô tô điện tại Việt Nam dự kiến đạt 1 triệu chiếc vào năm 2028 và 3,5 triệu chiếc vào năm 2040. Để đáp ứng, cần hàng chục nghìn trạm sạc nhanh và siêu nhanh, trong khi đến nay mới chỉ có vài nghìn điểm sạc do VinFast và một số đơn vị thử nghiệm triển khai. Về hệ thống lưu trữ năng lượng, hiện Việt Nam mới có vài dự án thử nghiệm nhỏ, trong khi mục tiêu đến năm 2030 đạt từ 10.000 đến 16.300 MW. Điều này đòi hỏi phải đầu tư nghiên cứu sâu về pin Li-ion, Na-ion, pin thể rắn cùng hệ thống quản lý thông minh.
Trong khi đó, việc xây dựng lưới điện thông minh cũng trở nên cấp thiết, khi EVN đặt mục tiêu đến năm 2030, 100% lưới điện truyền tải và phân phối chính được số hóa, đòi hỏi sự phát triển của các thiết bị quản lý phụ tải, hệ thống giám sát số hóa, kết hợp trí tuệ nhân tạo và Internet vạn vật để vận hành linh hoạt.
Tuy nhiên, hiện nay, hơn 90% thiết bị then chốt như inverter, bộ sạc xe điện, hệ thống lưu trữ năng lượng vẫn do các hãng nước ngoài cung cấp. Doanh nghiệp trong nước mới dừng ở mức lắp ráp hoặc tích hợp hệ thống, chưa nắm được công nghệ lõi như thiết kế vi mạch bán dẫn, điều khiển công suất hay quản lý năng lượng. Nguồn nhân lực nghiên cứu - phát triển cũng còn hạn chế, tập trung chủ yếu tại một số trường, viện, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trường. Việt Nam hiện chưa có một chiến lược phát triển rõ ràng coi thiết bị biến đổi năng lượng là lĩnh vực ưu tiên, dẫn tới sự phân tán trong nghiên cứu và thiếu chính sách hỗ trợ dài hạn.
Trong báo cáo tham luận tại Diễn đàn Đổi mới sáng tạo năng lượng năm 2025, nhóm nghiên cứu của GS.TS Lê Minh Phương chỉ ra rằng, Việt Nam cần tập trung vào một số lĩnh vực công nghệ trọng điểm. Đó là phát triển bán dẫn công suất SiC và GaN để nâng cao hiệu suất, giảm tổn thất; chế tạo hybrid inverter nội địa với dải sản phẩm từ 5 kW dân dụng đến 500 kW công nghiệp; làm chủ công nghệ pin Li-ion, Na-ion và công nghệ quản lý hệ thống lưu trữ năng lượng; thiết kế bộ sạc nhanh DC cho xe điện, tích hợp chuẩn quốc tế và hướng tới ứng dụng V2G; đồng thời phát triển các công nghệ số như digital twin, IoT, AI và học máy để dự báo hỏng hóc, tối ưu vận hành. Bên cạnh đó, việc nội địa hóa sản xuất từ thiết kế mạch công suất, bảng mạch PCB đến phát triển công nghiệp hỗ trợ như cuộn cảm, biến áp, tản nhiệt sẽ giúp giảm nhập khẩu, tạo ra ngành công nghiệp mới và nhiều việc làm kỹ thuật cao.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần sự đồng bộ cả về chính sách, khoa học- công nghệ và nhân lực. Về chính sách, Việt Nam cần xây dựng chương trình khoa học - công nghệ quốc gia về thiết bị biến đổi năng lượng, áp dụng cơ chế thử nghiệm sandbox cho sản phẩm mới, ban hành ưu đãi đặc thù về thuế, tín dụng và khấu trừ chi phí nghiên cứu, đồng thời xác định một số sản phẩm chiến lược như inverter công suất lớn, hệ thống lưu trữ, trạm sạc nhanh để ưu tiên hỗ trợ.
Về khoa học - công nghệ, cần thành lập trung tâm nghiên cứu và thử nghiệm thiết bị biến đổi năng lượng quốc gia đạt chuẩn quốc tế, đẩy mạnh đăng ký sáng chế trong topology mạch, thuật toán điều khiển, quản lý lưu trữ thông minh, cũng như ứng dụng công nghệ số để rút ngắn thời gian nghiên cứu.
Về nhân lực, cần đào tạo đội ngũ kỹ sư điện tử công suất, chuyên gia bán dẫn, pin và vật liệu năng lượng, mở rộng hợp tác đào tạo quốc tế, đồng thời hình thành lực lượng nghiên cứu tinh nhuệ đủ sức thiết kế và chế tạo sản phẩm lõi.
Muốn thành công, cần phát huy mô hình hợp tác “ba nhà”: Nhà nước - Nhà khoa học - Doanh nghiệp. Nhà nước kiến tạo chính sách, xây dựng hạ tầng thử nghiệm và huy động tài chính quốc tế. Nhà khoa học tập trung nghiên cứu ứng dụng, đào tạo nhân lực chất lượng cao và gắn kết viện - trường - doanh nghiệp. Doanh nghiệp là trung tâm thương mại hóa, cần đầu tư mạnh vào nghiên cứu - phát triển, hình thành hệ sinh thái nội địa. Trong đó, EVN, Petrovietnam, Vingroup và VinFast đóng vai trò dẫn dắt, hợp tác với các hãng quốc tế để tiếp nhận công nghệ, đồng thời nuôi dưỡng hệ sinh thái khởi nghiệp trong lĩnh vực năng lượng.
Tại diễn đàn, một số kiến nghị chính sách cũng được nhấn mạnh, gồm: xây dựng chiến lược quốc gia về nội địa hóa công nghệ năng lượng với mục tiêu rõ ràng về tỷ lệ nội địa hóa thiết bị trọng yếu đến năm 2035; sớm hoàn thiện cơ chế thị trường, đặc biệt là cơ chế giá cho dịch vụ lưu trữ điện; lập quỹ đổi mới sáng tạo năng lượng sạch để đầu tư mồi cho nghiên cứu và khởi nghiệp; tăng cường hợp tác quốc tế với các đối tác chiến lược, nhất là trong lĩnh vực pin thể rắn và quản lý năng lượng; đồng thời đầu tư mạnh cho giáo dục - đào tạo, mở rộng chương trình đào tạo kỹ sư chuyên ngành hẹp và xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo về năng lượng sạch.