Trao đổi với Phóng viên, Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Lê Hữu Trí - Phụ trách Đoàn ĐBQH tỉnh Khánh Hòa nhận định, Petrovietnam đóng vai trò hết sức đặc biệt trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng Nam Trung Bộ nói chung và Khánh Hòa nói riêng, nhất là sau khi hai tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận hợp nhất thành một đơn vị hành chính - kinh tế mới. Sự hiện diện của Petrovietnam không chỉ mang lại giá trị trực tiếp thông qua đầu tư và việc làm, mà còn tạo động lực phát triển hàng loạt ngành công nghiệp phụ trợ, cũng như trong các mặt kinh tế, xã hội khác...
PV: Thưa ông, ông nhìn nhận thế nào về đóng góp và vị thế của Petrovietnam trong nền kinh tế quốc dân hiện nay?
ĐBQH Lê Hữu Trí: Hiện nay, Petrovietnam không chỉ là doanh nghiệp trụ cột của nền kinh tế, mà còn là “xương sống” trong chuỗi cung ứng năng lượng quốc gia, góp phần quan trọng duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an ninh năng lượng, bảo vệ chủ quyền biển đảo, đóng góp lớn nhất vào ngân sách nhà nước cũng như tăng trưởng GDP của đất nước.
Cùng với đó, Petrovietnam còn đóng vai trò trụ cột, đầu tàu và là động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế của nhiều địa phương, tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động thông qua triển khai thành công các chuỗi dự án, công trình trọng điểm quốc gia tại các khu vực, địa bàn trên cả nước như: Dung Quất - Quảng Ngãi, Cụm Khí - Điện - Đạm Cà Mau, Nghi Sơn - Thanh Hóa, Nhơn Trạch - Đồng Nai...
Về an ninh năng lượng, Petrovietnam đang giữ vai trò điều tiết và dự phòng nguồn cung, từ khai thác dầu khí trong nước đến nhập khẩu LNG, phát triển các trung tâm điện khí, điện tái tạo và chuẩn bị cho nguồn năng lượng hạt nhân an toàn, hiện đại. Đây là nền tảng giúp Việt Nam giảm phụ thuộc nhập khẩu, chủ động ứng phó biến động giá năng lượng toàn cầu.
Đặc biệt, trong chiến lược chuyển dịch năng lượng, Petrovietnam đang tiên phong phát triển hydrogen, ammonia xanh, điện gió ngoài khơi và các giải pháp lưu trữ quy mô lớn, góp phần hiện thực hóa mục tiêu Net Zero vào năm 2050.
PV: Ở góc độ địa phương, đặc biệt khi Khánh Hòa và Ninh Thuận vừa sáp nhập, ông đánh giá ra sao về những đóng góp cụ thể của Petrovietnam đối với phát triển kinh tế - xã hội tại Khánh Hòa và vùng Nam Trung Bộ?
ĐBQH Lê Hữu Trí: Ở góc nhìn của địa phương, tôi cho rằng, Petrovietnam đóng vai trò hết sức đặc biệt trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng Nam Trung Bộ nói chung và Khánh Hòa nói riêng, nhất là sau khi hai tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận hợp nhất thành một đơn vị hành chính - kinh tế mới.
Trước hết, Petrovietnam là nguồn lực kinh tế trọng yếu, đóng góp lớn cho ngân sách địa phương tại vùng Nam Trung Bộ thông qua thuế, phí và các hoạt động dịch vụ kỹ thuật, logistics, năng lượng. Các dự án mà Tập đoàn và các đơn vị thành viên đã triển khai như: Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Nhà máy đóng tàu Dung Quất, khu vực cảng Cam Ranh… đã trực tiếp tạo việc làm ổn định cho hàng nghìn lao động kỹ thuật và dịch vụ, qua đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương từ nông - ngư nghiệp truyền thống sang công nghiệp, năng lượng và dịch vụ chất lượng cao.
Sự hiện diện của Petrovietnam không chỉ mang lại giá trị trực tiếp thông qua đầu tư và việc làm, mà còn tạo động lực phát triển hàng loạt ngành công nghiệp phụ trợ như: vận tải biển, cơ khí, vật liệu xây dựng, thương mại, đào tạo nghề và du lịch công nghiệp. Nhiều doanh nghiệp địa phương đã trở thành nhà thầu, nhà cung ứng trong chuỗi dự án năng lượng, từ đó nâng cao năng lực công nghệ, quản trị và đóng góp thêm cho ngân sách. Điều này thể hiện rõ vai trò “dẫn dắt” của Petrovietnam trong việc lan tỏa động lực tăng trưởng ra toàn bộ hệ sinh thái kinh tế vùng.
Đáng chú ý, Petrovietnam luôn là đơn vị đi đầu trong thực hiện trách nhiệm xã hội và an sinh cộng đồng tại Khánh Hòa và vùng Nam Trung Bộ. Hằng năm, Tập đoàn và các đơn vị thành viên hỗ trợ hàng chục tỷ đồng xây dựng trường học, trạm y tế, nhà tình nghĩa, công trình nước sạch; đồng hành cùng ngư dân bám biển; tổ chức các chương trình ứng phó thiên tai và bảo vệ môi trường biển. Đây là những đóng góp bền bỉ, không chỉ góp phần nâng cao chất lượng sống của người dân, mà còn củng cố niềm tin và sự đồng thuận xã hội đối với các dự án năng lượng trọng điểm của quốc gia.
Tôi tin rằng, với tầm vóc, năng lực và kinh nghiệm quốc tế của Petrovietnam, cùng sự đồng hành của chính quyền địa phương, Tập đoàn sẽ tiếp tục giữ vai trò trụ cột trong phát triển bền vững khu vực Nam Trung Bộ, đặc biệt là Khánh Hòa trong thời gian tới.
PV: Thưa ông, dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 2 do Petrovietnam làm chủ đầu tư, được coi là bước ngoặt trong chiến lược năng lượng quốc gia. Ông đánh giá thế nào về ý nghĩa và tầm quan trọng của dự án này đối với an ninh năng lượng và sự phát triển kinh tế - xã hội vùng Nam Trung Bộ, đặc biệt là Khánh Hòa?
ĐBQH Lê Hữu Trí: Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt. Trong bối cảnh các nguồn năng lượng truyền thống như than, dầu khí đang dần suy giảm, trong khi năng lượng tái tạo chịu tính bất định cao (do phụ thuộc thời tiết), thì điện hạt nhân chính là nguồn điện nền ổn định, công suất lớn và phát thải thấp.
Dự án không chỉ giúp Việt Nam tiến thêm một bước trong lộ trình chủ động công nghệ năng lượng hạt nhân, mà còn mang ý nghĩa chiến lược đối với an ninh năng lượng quốc gia và phát triển vùng Nam Trung Bộ, đồng thời tạo động lực phát triển công nghiệp phụ trợ, khoa học - giáo dục và nâng cao vị thế quốc gia trên bản đồ năng lượng toàn cầu.
Việc Petrovietnam được giao làm chủ đầu tư và triển khai dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 2 cho thấy sự tin tưởng của Đảng, Nhà nước vào năng lực tổ chức, quản trị và công nghệ của Tập đoàn.
Từ đó, một tổ hợp năng lượng gồm điện hạt nhân, LNG và năng lượng tái tạo do Petrovietnam điều phối sẽ giúp đa dạng hóa nguồn cung, gia tăng dự phòng, ổn định lưới và giảm mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu nhiên liệu khi giá cả toàn cầu biến động. Điều này trực tiếp đóng góp vào khả năng ứng phó khủng hoảng năng lượng và bảo đảm an sinh, kinh tế xã hội ở quy mô quốc gia.
Nhìn từ góc độ phát triển vùng, dự án điện hạt nhân có thể trở thành đầu tàu thúc đẩy cơ sở hạ tầng chiến lược như: cảng, kho bến, truyền tải điện, logistics và khu công nghiệp phụ trợ, góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao năng lực cung ứng nội địa và hút đầu tư công nghệ cao cho vùng Nam Trung Bộ, đặc biệt là Khánh Hòa.
Hơn thế, dự án mở ra cơ hội phát triển chuỗi giá trị: đào tạo kỹ sư, trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D), sản xuất thiết bị công nghiệp nặng và dịch vụ bảo trì chuyên sâu, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
PV: Theo ông, để dự án thực hiện theo đúng kế hoạch, tỉnh Khánh Hòa cần chuẩn bị những điều kiện gì để đồng hành cùng Petrovietnam trong dự án đặc biệt này?
ĐBQH Lê Hữu Trí: Theo tôi, để đồng hành cùng Petrovietnam trong dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 2 - một dự án có ý nghĩa chiến lược đối với an ninh năng lượng quốc gia, tỉnh Khánh Hòa cần chủ động chuẩn bị đồng bộ trên nhiều phương diện.
Trước hết, tỉnh cần hoàn thiện quy hoạch phát triển không gian, hạ tầng và sử dụng đất phù hợp với yêu cầu đặc thù của nhà máy điện hạt nhân, bảo đảm kết nối đồng bộ với hạ tầng vùng Nam Trung Bộ, đặc biệt là hệ thống truyền tải điện, cảng biển, giao thông và khu công nghiệp phụ trợ. Song song đó, việc thành lập tổ công tác liên ngành giữa tỉnh, các bộ, ngành và Petrovietnam sẽ giúp tháo gỡ kịp thời các vướng mắc pháp lý, rút ngắn thời gian chuẩn bị đầu tư.
Một nhiệm vụ quan trọng khác là chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao. Khánh Hòa cần phối hợp với Petrovietnam và các cơ sở đào tạo lớn để xây dựng chương trình đào tạo kỹ sư, kỹ thuật viên vận hành, an toàn bức xạ, quản lý dự án, ưu tiên tuyển dụng và bồi dưỡng lao động địa phương.
Bên cạnh đó, tỉnh cũng nên hỗ trợ doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp cơ khí, logistics, dịch vụ kỹ thuật… nâng cao năng lực để tham gia vào chuỗi cung ứng cho dự án.
Một vấn đề quan trọng khác đó là công tác đảm bảo an sinh, môi trường và truyền thông. Chính quyền cần xây dựng kế hoạch tái định cư minh bạch, quỹ phát triển cộng đồng, đồng thời cung cấp thông tin đầy đủ, khách quan để người dân yên tâm, đồng thuận. Nếu chuẩn bị tốt các yếu tố này, Khánh Hòa không chỉ góp phần quan trọng vào thành công của dự án điện hạt nhân, mà còn mở ra cơ hội bứt phá về công nghiệp, hạ tầng và nguồn nhân lực cho cả vùng Nam Trung Bộ trong nhiều thập niên tới.
PV: Thưa ông, dù Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 189/2025/QH15 về cơ chế, chính sách đặc biệt cho dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, nhưng việc triển khai vẫn gặp nhiều khó khăn. Theo ông, đâu là những rào cản lớn nhất trong việc tái khởi động dự án?
ĐBQH Lê Hữu Trí: Việc tái khởi động dự án điện hạt nhân Ninh Thuận hiện vẫn đối mặt với nhiều thách thức đến từ nhiều phía.
Trước hết, về khung pháp lý, dù Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 189/2025/QH15, Luật Năng lượng nguyên tử, nhưng một số văn bản hướng dẫn triển khai chi tiết vẫn chưa hoàn thiện về đầu tư, vận hành, giám sát và an toàn bức xạ còn thiếu, chồng chéo với Luật Đầu tư công, Luật Điện lực và Luật Bảo vệ môi trường, tạo ra những bất định pháp lý. Điều này khiến các nhà đầu tư, cơ quan quản lý và địa phương khó lên kế hoạch triển khai đồng bộ, cũng như gặp khó trong việc ràng buộc trách nhiệm và bảo đảm hiệu quả lâu dài.
Thứ hai, về tài chính và tổng mức đầu tư: Dự án có quy mô hàng chục tỷ USD, cùng với đó chi phí giải phóng mặt bằng, bồi thường, tái định cư và đầu tư hạ tầng kèm theo đã tăng đáng kể so với dự toán ban đầu.
Thứ ba, giải phóng mặt bằng và tái định cư là thách thức lớn, bởi số lượng hộ dân, diện tích đất cần thu hồi và nhu cầu ổn định sinh kế là rất lớn. Nếu không giải quyết công bằng, minh bạch và thỏa đáng, sẽ kéo dài khiếu kiện, ảnh hưởng tới tiến độ và đồng thuận xã hội.
Thứ 4, vấn đề quản lý chất thải hạt nhân và nhiên liệu đã qua sử dụng cũng đang là rào cản lớn. Hiện nay, cơ chế tài chính cho việc xử lý, lưu trữ lâu dài chất thải phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân chưa được hướng dẫn chi tiết, khiến các nhà cung cấp công nghệ và các tổ chức tài chính quốc tế không thể xác định chính xác chi phí cũng như rủi ro dài hạn. Thêm vào đó, quy hoạch về địa điểm lưu trữ chất thải và nhiên liệu đã qua sử dụng chưa rõ ràng, tạo ra sự lo ngại về tính khả thi và chi phí của toàn bộ vòng đời dự án.
Bên cạnh đó, việc hài hòa các quy chuẩn an toàn bức xạ và kỹ thuật cũng còn hạn chế. Một số quy định hiện chưa phù hợp hoàn toàn với tiêu chuẩn quốc tế (IAEA/WENRA) và tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước cung cấp công nghệ, khiến quá trình chuyển giao và áp dụng công nghệ bị chậm, chi phí dự án tăng lên.
PV: Ở góc độ ĐBQH, ông có kiến nghị gì về cơ chế, chính sách đặc thù để các nhà đầu tư chủ động hơn trong triển khai dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, cũng như các dự án năng lượng chiến lược khác?
ĐBQH Lê Hữu Trí: Theo tôi, cần có cơ chế chính sách đủ mạnh và mô hình đặc thù toàn diện cho phép chủ đầu tư tự chủ trong quyết định đầu tư, nhằm tăng tính linh hoạt và chủ động trong quá trình triển khai, nhưng vẫn trong khuôn khổ giám sát nghiêm ngặt về an toàn hạt nhân và môi trường, đồng thời ràng buộc trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan quản lý, nhà đầu tư và chính quyền địa phương.
Về tài chính và huy động vốn, tôi cho rằng cần thiết lập cơ chế chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước và doanh nghiệp, quỹ bảo hiểm trách nhiệm hạt nhân, quỹ dự phòng nhiên liệu đã qua sử dụng, cơ chế bù đắp chi phí tái định cư và cơ chế giá điện hợp lý. Những cơ chế này sẽ giúp chủ đầu tư chủ động quản lý dòng tiền, giảm áp lực tài chính và tăng sức hấp dẫn với nhà đầu tư chiến lược.
Ngoài ra, để thu hút đầu tư quốc tế, cần xem xét các chính sách ưu đãi, hỗ trợ tín dụng hoặc bảo lãnh dự án, đồng thời mở cơ chế linh hoạt cho hợp tác công - tư trong các giai đoạn xây dựng, vận hành và quản lý chất thải.
Về nội địa hóa và công nghiệp phụ trợ, cần chính sách ưu tiên phát triển ngành cơ khí, vật liệu, công nghệ cao phục vụ điện hạt nhân, điện khí và điện gió ngoài khơi. Mô hình hợp tác công - tư, liên doanh với nhà thầu nước ngoài sẽ thúc đẩy chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất trong nước, đồng thời tăng tính chủ động cho chủ đầu tư trong các dự án quy mô lớn.
Cuối cùng, về nhân lực và đồng thuận xã hội, cần xây dựng lộ trình đào tạo dài hạn cho kỹ sư, vận hành viên, chuyên gia an toàn hạt nhân; đồng thời tăng cường minh bạch thông tin, tham vấn cộng đồng và đảm bảo quyền lợi người dân trong các dự án năng lượng.
Nếu có cơ chế đủ mạnh, Petrovietnam nói riêng và các nhà đầu tư tiên phong nói chung hoàn toàn có thể phát huy năng lực tổng hợp về công nghiệp, kỹ thuật và quản trị dự án, trở thành đầu tàu thực hiện các dự án năng lượng chiến lược của quốc gia, bảo đảm an ninh năng lượng và phát triển bền vững.
PV: Về dài hạn, ông kỳ vọng gì vào đóng góp của Petrovietnam đối với nền kinh tế nói chung và tỉnh Khánh Hòa nói riêng?
ĐBQH Lê Hữu Trí: Có thể khẳng định rằng, Petrovietnam sẽ tiếp tục giữ vai trò chiến lược trong đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đồng thời tiên phong trong chuyển dịch năng lượng sạch, đổi mới công nghệ và phát triển bền vững. Các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi, năng lượng mới, cùng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 2 sẽ góp phần giảm phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, ổn định nguồn điện, giá cả và đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững. Những dự án này cũng trực tiếp bổ sung nguồn ngân sách cho đầu tư hạ tầng và các chương trình phát triển xã hội.
Ở góc độ địa phương, Khánh Hòa sẽ được hưởng lợi rõ rệt từ các dự án của Petrovietnam, đặc biệt là dự án điện hạt nhân. Dự án này không chỉ tạo nền tảng năng lượng ổn định cho toàn vùng Nam Trung Bộ mà còn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông - ngư nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ kỹ thuật cao. Các khu vực cảng biển, kho LNG và cụm điện hạt nhân sẽ tạo hàng nghìn việc làm trực tiếp cho lao động kỹ thuật, đồng thời phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ như cơ khí, vật liệu xây dựng, logistics và thương mại.
Dự án điện hạt nhân cũng khai thác hiệu quả tiềm năng cảng biển và năng lượng sạch của tỉnh, tạo động lực cho các dự án điện gió ngoài khơi, điện mặt trời và đô thị năng lượng ven biển, nâng cao khả năng thu hút đầu tư tư nhân và quốc tế, đồng thời định vị Khánh Hòa thành trung tâm năng lượng chiến lược của miền Trung.
Bên cạnh những đóng góp về kinh tế, Petrovietnam còn gắn kết với trách nhiệm xã hội, từ chương trình tái định cư, hỗ trợ sinh kế cho người dân đến đầu tư vào y tế, giáo dục và hạ tầng dân sinh. Những nỗ lực này không chỉ tạo niềm tin và đồng thuận xã hội mà còn đảm bảo phát triển bền vững lâu dài.
Tôi tin rằng, với tầm vóc và kinh nghiệm, Petrovietnam sẽ tiếp tục là trụ cột kinh tế - kỹ thuật của quốc gia, đồng thời là biểu tượng của trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam trên hành trình hiện đại hóa đất nước.
PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Petrovietnam đã trải qua 50 năm đồng hành cùng với đất nước, là động lực phát triển kinh tế, xã hội đất nước thông qua thực hiện sứ mệnh bảo đảm “5 An”: an ninh năng lượng, an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh quốc phòng và chủ quyền quốc gia trên biển, đồng thời góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
Từ việc thực hiện sứ mệnh 5 “An” đó, Petrovietnam đã khẳng định uy tín, vị thế của một Tập đoàn kinh tế hàng đầu đất nước với thành tựu “05 Nhất”:
Doanh nghiệp có quy mô lớn nhất, với tổng tài sản hợp nhất vượt 1 triệu tỷ đồng, vốn chủ sở hữu hơn 556 nghìn tỷ đồng.
Là đơn vị có đóng góp ngân sách cao nhất, với bình quân đạt 160 nghìn tỷ đồng/năm trong những năm gần đây, chiếm tới 80,3% tổng số nộp ngân sách của 18 Tập đoàn, Tổng công ty trong khối doanh nghiệp nhà nước;
Có lợi nhuận cao nhất, khi giai đoạn 2020–2025 đạt tới 316 nghìn tỷ đồng, tương đương bình quân 2,2 tỷ USD/năm.
Là doanh nghiệp duy nhất đạt và đạt nhiều giải thưởng cao quý về khoa học – công nghệ, trong đó có 6 giải thưởng Hồ Chí Minh và 4 giải thưởng Nhà nước, cùng hàng chục sáng chế trong nước và quốc tế uy tín.
Đặc biệt, là doanh nghiệp dẫn đầu đạt mức cao nhất trong hoạt động an sinh xã hội, chỉ riêng giai đoạn 2020–2025 đã dành hơn 5,13 nghìn tỷ đồng.