Tin Tập đoàn

Petrovietnam đi đầu về công nghệ xanh CCS

Trước thách thức của biến đổi khí hậu, Việt Nam đang từng bước chuyển mình, hướng tới các công nghệ “làm sạch bầu trời” nhằm kiểm soát và giảm thiểu phát thải CO₂. Trong hành trình đó, Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đã chủ động, tiên phong triển khai các giải pháp công nghệ tiên tiến. TS. Nguyễn Diệu Nương – Trưởng nhóm nghiên cứu Công nghệ thu hồi và lưu trữ carbon (CCS), Ban Thăm dò - Khai thác Dầu khí của Petrovietnam – đã có những chia sẻ nhằm cung cấp thêm thông tin chuyên sâu đến bạn đọc.

PV: Được biết, Petrovietnam đã và đang khẩn trương nghiên cứu, triển khai CCS trong những năm gần đây, vậy xin bà cho biết tiến trình này như thế nào?

TS Nguyễn Diệu Nương

TS Nguyễn Diệu Nương: CCS là công nghệ được thiết kế để giảm lượng khí thải CO2 có khối lượng rất lớn từ các hoạt động công nghiệp. Công nghệ CCS này bao gồm 3 bước chính: thu giữ CO2 tại nguồn, vận chuyển an toàn và lưu trữ sâu dưới lòng đất. Đây là một công nghệ mới, có quy chuẩn quốc tế cao, bởi vậy Petrovietnam đã quyết định lựa chọn Tổ chức An ninh năng lượng và Kim loại Nhật Bản (JOGMEG) làm đối tác chiến lược cùng nghiên cứu và thực hiện dự án.

Như bạn đã biết, Petrovietnam là tập đoàn dầu khí quốc gia với 50 năm kinh nghiệm quản lý và triển khai các các dự án dầu khí. Với những kinh nghiệm quản lý các dự án phức tạp, mạng lưới hạ tầng kỹ thuật và cơ sở rộng khắp trên cả nước, cơ sở dữ liệu địa chất, thông tin giếng khoan tích lũy qua nhiều năm, cùng với đội ngũ chuyên gia có kiến thức địa chất và khả năng kỹ thuật đã giúp Petrovietnam có khả năng đánh giá tiềm năng lưu trữ CO2 ở các bể trầm tích của Việt Nam với độ tin cậy cao.

JOGMEC là một đối tác chiến lược trong việc phát triển CCS tại Việt Nam. Họ đã chia sẻ và ứng dụng các công nghệ CCS tiên tiến, kinh nghiệm thực tế từ các dự án thành công tại Nhật Bản và ở các nước trên thế giới, đồng thời hỗ trợ thủ tục để nhận hỗ trợ tài chính thông qua các quỹ phát triển xanh. Như vậy, việc hợp tác với đối tác Nhật Bản mang lại giá trị đáng kể, bao gồm quyền tiếp cận nguồn tài chính ưu đãi, chuyển giao công nghệ, đào tạo quản lý và triển khai dự án, mở rộng cơ hội trong các lĩnh vực công nghiệp xanh khác và nâng cao uy tín quốc tế của Việt Nam.

Chúng tôi đã vạch ra một kế hoạch 4 giai đoạn từ năm 2024 đến năm 2030. Bắt đầu bằng nghiên cứu, sau đó là chuẩn bị, triển khai thí điểm và triển khai đầy đủ. Kế hoạch đã đưa ra các mốc thời gian chi tiết, mô hình tài trợ, giám sát an toàn và hệ thống ứng phó khẩn cấp. Cụ thể, giai đoạn chuẩn bị 2024-2026 gồm triển khai các nghiên cứu khả thi, thiết lập khuôn khổ pháp lý và hoàn thiện các thỏa thuận hợp tác để triển khai thực hiện các mục tiêu và kế hoạch nghiên cứu công nghệ CCS tại Việt Nam. Trong giai đoạn này, dự án đánh giá các nguồn phát thải, các khu vực có khả năng lưu giữ CO2 tiềm năng trên khắp thềm lục địa của Việt Nam, xây dựng quy hoạch tổng thể và phân vùng để triển khai CCS. Tập đoàn cũng đã đánh giá và lựa chọn địa điểm sơ bộ để triển khai thử nghiệm CCS đầu tiên ở Việt Nam.

Cùng với các đánh giá kỹ thuật, Petrovietnam và JOGMEC đã tiến hành các nghiên cứu chung về chuỗi giá trị CCS ngoài khơi và đánh giá tính khả thi của các dự án thí điểm trên bờ. Song song đó, công tác đào tạo về công nghệ CCS, xây dựng khuôn khổ pháp lý và kiến nghị mô hình kinh tế cũng được triển khai. Về mặt pháp lý, Petrovietnam sẽ đề xuất các quy định chi tiết cho các dự án, cập nhật mô hình phát triển thị trường carbon và xin phép triển khai các dự án CCS thí điểm và thương mại.

Cuối giai đoạn này, Petrovietnam sẽ đề xuất mô hình kinh doanh phù hợp cho dự án lưu trữ CO2 địa chất đầu tiên tại Việt Nam làm cơ sở cập nhật các mô hình kinh doanh CCS trong nước trong giai đoạn tiếp theo.

Trong giai đoạn xây dựng 2026-2028, Petrovietnam sẽ lựa chọn và chuẩn bị địa điểm lưu trữ triển khai dự án CCS đầu tiên, chuẩn bị đánh giá khả thi cho xây dựng cơ sở hạ tầng thu giữ CO2, đường ốngvận chuyển.

Giai đoạn vận hành thử nghiệm 2028-2029, Petrovietnam sẽ vận hành hệ thống ở công suất hạn chế để đánh giá hiệu suất và đào tạo các nhà điều hành địa phương và sẽ chuyển sang giai đoạn vận hành toàn phần sau 2030, hoạt động ở công suất thiết kế, mở rộng quy mô dự án và tối ưu hóa các quy trình.

Mỗi giai đoạn đều có các mốc quan trọng để bảo đảm chúng tôi đi đúng hướng và có thể điều chỉnh khi cần trong suốt quá trình triển khai. Cách tiếp cận theo từng giai đoạn này cũng cho phép chúng tôi quản lý rủi ro một cách cẩn thận và thích ứng với các điều kiện thực tế khi dự án tiến triển.

PV: Xin bà cho biết về các mục tiêu bổ sung trong kế hoạch CCS của Petrovietnam?

TS Nguyễn Diệu Nương: Các mục tiêu bổ sung cho giai đoạn 2026-2028 là triển khai nghiên cứu CCS kết hợp với tăng cường thu hồi dầu (EOR) sử dụng CO2 đối với các mỏ dầu có đủ điều kiện ở bể Cửu Long song song với dự án CCS thí điểm.

Kế hoạch cũng tập trung vào việc hoàn thiện kỹ thuật và công nghệ, bao gồm đánh giá và thử nghiệm các công nghệ thu gom, vận chuyển và bơm CO2 cho các khu vực trên bờ và ngoài khơi bể Mã Lai - Thổ Chu và Nam Côn Sơn.

Về khuôn khổ pháp lý, chúng tôi sẽ phối hợp với các bộ, ngành xây dựng kế hoạch với mục tiêu hoàn thiện các thủ tục kiểm tra, kiểm soát và phòng ngừa rủi ro, đồng thời xây dựng, sửa đổi khung pháp lý và quy định quốc gia về CCS.

Đối với mô hình kinh doanh, tập trung nghiên cứu và đề xuất các phương pháp tiếp cận để cung cấp các ưu đãi tài chính cho các dự án CCS, hoàn thiện và đề xuất các mô hình kinh doanh phù hợp cũng như thử nghiệm các cơ chế giao dịch khí thải với các đối tác trong nước và quốc tế. Mục tiêu của kế hoạch triển khai CCS của Petrovietnam là hiện thực hóa 1 dự án CCS thương mại ngoài khơi Việt Nam sau năm 2030.

Ngoài ra, tôi xin chia sẻ với các bạn về địa điểm triển vọng nhất để triển khai dự án CCS. Đó là khu vực Nghi Sơn (diện tích khoảng 17.000km2, với tiềm năng lưu giữ hơn 1 tỉ tấn CO2). Các khảo sát địa chất và đánh giá rủi ro cho thấy địa điểm này “đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn, lưu trữ và khả năng tiếp cận kinh tế đối với các nguồn phát thải công nghiệp”.

Dự án CCS tại Khu công nghiệp Nghi Sơn mang lại những lợi ích đáng kể cho môi trường, bao gồm việc giảm đáng kể lượng khí thải nhà kính, góp phần vào các mục tiêu khí hậu quốc gia.

PV: Thưa bà, vì sao lại chọn Nghi Sơn - Thanh Hóa?

TS Nguyễn Diệu Nương: Khu kinh tế Nghi Sơn là nơi có nhà máy lọc dầu và nhiều nhà máy điện lớn, phát thải ít nhất hơn 10 triệu tấn CO2 mỗi năm. Các cấu trúc địa chất ngoài khơi khu vực này ước tính có khả năng lưu trữ hơn 1 tỉ tấn CO2, một địa điểm lý tưởng để thực hiện CCS quy mô lớn.

Lượng khí thải cao, vị trí nguồn thải và vùng lưu giữ địa chất thuận lợi và gần nhau tạo ra cơ hội chiến lược để triển khai CCS tại Nghi Sơn góp phần làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon của trung tâm công nghiệp này, đóng vai trò quan trọng trong cân bằng hệ sinh thái đa dạng của Nghi Sơn.

Ngoài việc giảm phát thải, dự án CCS cũng sẽ mở ra nhiều lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương. Dự án dự kiến sẽ tạo ra 3.500 việc làm với mức lương cao hơn 25% so với mức trung bình của khu vực. Dự án cũng sẽ tạo ra 300 tỉ đồng doanh thu thuế hằng năm và thúc đẩy GDP địa phương tăng 15%. Rõ ràng, CCS không chỉ liên quan đến môi trường mà còn liên quan đến tăng trưởng kinh tế.

Về môi trường các lợi ích sinh thái là rất rõ ràng. Bằng cách thu giữ tới 90% lượng khí thải CO2, dự án này sẽ giảm đáng kể ô nhiễm không khí và bảo vệ các hệ sinh thái khu vực Nghi Sơn nói riêng, khu vực Nam Thanh - Bắc Nghệ nói chung phù hợp với các mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.

Hơn thế nữa, với dự án CCS được triển khai, Nghi Sơn và Thanh Hóa sẽ dẫn đầu trong chương trình nghị sự về khí hậu của Việt Nam, mở ra cánh cửa cho các quan hệ hợp tác toàn cầu, tài trợ và chuyển giao công nghệ - đưa khu vực này đi đầu trong phong trào Net Zero.

Ảnh minh họa nguồn thải CO2 tại các nhà máy điện

PV: Bà có thể cho biết thêm về các khó khăn, thách thức cũng như các giải pháp trong triển khai CCS tại Việt Nam?

TS Nguyễn Diệu Nương: Bên cạnh tất cả các lợi ích của dự án CCS, vẫn còn rất nhiều thách thức đối với việc triển khai CCS tại Việt Nam. Trong đó, chi phí ban đầu rất cao, công nghệ phức tạp, khung pháp lý chưa đầy đủ và sự không chắc chắn về mặt kinh tế và pháp lý.

Để giải quyết những khó khăn này, chúng tôi thấy rằng cần thiết lập các mô hình đối tác công tư (PPP) với các ưu đãi về thuế và đất đai hấp dẫn để khuyến khích đầu tư. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận các quỹ khí hậu quốc tế như Quỹ Khí hậu Xanh để hỗ trợ tài chính cho các dự án. Mặt khác, tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu thúc đẩy công nghệ và giảm chi phí. Đồng thời phát triển các chương trình đào tạo lực lượng lao động chuyên biệt để xây dựng các kỹ năng cần thiết. Phát triển các chính sách khuyến khích đặc biệt từ Chính phủ để thúc đẩy việc áp dụng CCS. Đặc biệt, cần tạo các chương trình nâng cao nhận thức trong người dân, doanh nghiệp để xây dựng sự hỗ trợ cho các dự án.

Theo tôi, các giải pháp nêu trên, đặc biệt là sự ủng hộ của Chính phủ nước ta đang nỗ lực hoàn thiện chính sách và hỗ trợ tài chính mạnh mẽ, sẽ đủ khả năng giải quyết những thách thức và đưa Việt Nam vào hàng ngũ những quốc gia tiên phong đi đầu về công nghệ xanh.

PV: Xin cảm ơn bà!

Việt Nam đang tham gia tích cực vào cơ chế JCM - Cơ chế Tín chỉ chung (Joint Crediting Mechanism) nhằm hỗ trợ Nhật Bản thực hiện các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính và phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Nếu được phê duyệt trong khuôn khổ cơ chế JCM, dự án CCS tại Nghi Sơn sẽ nhận được hỗ trợ công nghệ từ Nhật Bản.

Theo tin từ pvn.vn 

Bài viết liên quan