Tin Tập đoàn

Nhìn lại 50 năm Petrovietnam: “Công lao lớn nhất thuộc về nhân dân”

Từ những mũi khoan đầu tiên ở miền Bắc cho đến dòng dầu công nghiệp đầu tiên bùng cháy trên vùng biển phía Nam, hành trình xây dựng ngành Dầu khí Việt Nam là chuỗi dài những nỗ lực thầm lặng, bền bỉ và đầy bản lĩnh của những con người tiên phong. Trong ký ức của một người từng có mặt ở hầu hết các cột mốc lịch sử ấy, câu chuyện phát triển ngành Dầu khí được viết bằng mồ hôi, máu và nước mắt. Đó cũng là hành trình của một niềm tin sắt đá, của những quyết sách táo bạo đã góp phần thay đổi vận mệnh kinh tế đất nước.

 

Chúng tôi đến gặp TS Đặng Của vào một buổi sáng giữa tháng Năm. Trời nắng gắt, không gian chao nghiêng trong cái oi nồng đầu hạ, nhưng khi bước vào căn nhà nhỏ nơi ông đang chờ sẵn, mọi thứ như chậm lại. Trước mặt chúng tôi là một người đàn ông đã gần 90 tuổi, dáng vẻ phúc hậu. Trên gương mặt tuy đã hằn vết thời gian, ánh mắt ông vẫn sáng lên sự tinh anh, cương nghị của một người đã đi qua những năm tháng gian lao nhất của ngành Dầu khí Việt Nam.

“Mới đây mà đã tròn 50 năm thành lập Tập đoàn” - ông nhấp một ngụm trà, thong thả nói. “Được là người chứng kiến chiều dài lịch sử phát triển của ngành, tôi thấy mình thật may mắn”. Sự phát triển ấy, theo ông, chính là tất yếu của lịch sử. “Từ chỗ là một đơn vị cơ sở, ngành Dầu khí đã được thành lập, rồi lớn dần lên thành một ngành kinh tế kỹ thuật trọng yếu của đất nước”.

TS Đặng Của - nguyên Vụ trưởng Vụ Khoan - Khai thác Dầu khí. Ông từng là người chỉ huy cao nhất về khoan của Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Việt - Xô (Vietsovpetro), Giám đốc Petrovietnam II từ năm 1988, Phó Giám đốc Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (1993), Phó Tổng Giám đốc phụ trách khoan của Vietsovpetro (1995-1999)

 

Gắn bó với công tác khoan - địa chất từ những năm 1950, Tiến sĩ Đặng Của là một trong những nhân chứng hiếm hoi đã trực tiếp đồng hành và chứng kiến trọn vẹn hành trình phát triển của ngành Dầu khí - từ buổi sơ khai đến thời kỳ huy hoàng nhất trong lịch sử.

Là người thuộc nhóm cán bộ đầu tiên được Nhà nước cử đi nước ngoài học về dầu khí, năm 1968, TS Đặng Của bắt đầu công tác tại Đoàn Địa chất Dầu lửa 36, và trở thành người đoàn phó thi công đầu tiên, trực tiếp phụ trách giếng khoan sâu đầu tiên của Việt Nam - giếng khoan thông số số 1 ở vùng Tiền Hải, Thái Bình. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của ông, giếng này lúc đó đã khoan được đến 3.303 mét - kỷ lục khoan sâu lúc bấy giờ. Tuy chưa có phát hiện dầu khí, nhưng những thông số ghi nhận được trong quá trình thực hiện giếng khoan này đã tạo ra nền tảng cơ sở dữ liệu địa chất cho miền võng Hà Nội, đồng thời đã đào tạo nên thế hệ kỹ sư địa chất - khoan nòng cốt cho những dự án tiếp theo.

Dòng ký ức của ông dần quay về khoảng những năm 1980, khi ngành Dầu khí bước vào giai đoạn phát triển mới với sự ra đời của Liên doanh Vietsovpetro, hàng ngàn cán bộ kỹ thuật, công nhân kỹ sư từ Bắc chí Nam đã được huy động vào làm việc tập trung tại Bà Rịa - Vũng Tàu.

Ông kể lại: “Lúc đó, nói thật là người vui cũng có mà người buồn cũng có. Người vui là những anh em ở phía Nam bởi được về miền Nam làm việc. Nhưng cũng có những anh em ở miền Bắc, vì đã có gia đình ổn định nên khi phải tiếp tục vào Nam thì cũng không khỏi đắn đo”.

Nhưng cuối cùng, vẫn là một tập thể - hàng ngàn người - đã cùng nhau tham gia vào chiến dịch mang tính lịch sử ấy.

Phải nói rằng, tâm trạng lúc đó là như vậy. Nhưng người vui vẫn nhiều hơn, vì ai cũng thấy đó là một bước phát triển của lịch sử. Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã thấy trước các vấn đề, đã xác định Dầu khí là ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn và đã ban hành Nghị quyết 15 để tiếp tục thúc đẩy sự phát triển toàn diện của ngành.

 

Nhìn lại 50 năm Petrovietnam: “Công lao lớn nhất thuộc về nhân dân”

Tàu khoan Mikhail Mirchink, mang tên một nhà bác học Liên Xô, được đưa từ biển Đông Siberia sang Việt Nam vào đầu thập niên 1980. Đây là một trong những tàu khoan hiện đại nhất thời bấy giờ, được sử dụng cho chiến dịch khoan tìm dầu tại mỏ Bạch Hổ. Suốt 150 ngày đêm vật lộn với sóng gió vùng biển nhiệt đới, tàu đã cùng đội ngũ chuyên gia Việt - Xô thực hiện sứ mệnh lịch sử: phát hiện dòng dầu công nghiệp đầu tiên của Việt Nam vào đêm 30/4/1984

 

Ông nhớ mãi thời điểm 30 tháng 4 năm đó. Khi anh em nghỉ lễ, ông thì ở lại trực theo phân công của lãnh đạo. Chính đêm hôm đó, họ đã phát hiện ra dòng dầu công nghiệp đầu tiên của Việt Nam.

“Lúc ấy, trên tàu khoan Mikhail Mirchink, tôi là người Việt Nam duy nhất có mặt. Mẫu dầu đầu tiên - mà chúng tôi gọi vui là “nàng công chúa” - đã được “đánh thức”, mang lên khỏi lòng đất vào lúc 20 giờ ngày 30/4/1984”.

“Chúng tôi đưa mẫu lên boong tàu. Đến 21 giờ ngày 26/5, ngọn lửa dầu đầu tiên chính thức được đốt lên, ngọn đuốc ấy đã bùng cháy ngoài khơi biển Vũng Tàu, báo hiệu dòng dầu đầu tiên đã được xác nhận là dầu công nghiệp”.

“Tôi nói thật với các bạn, mừng lắm chứ. Những người đi tìm dầu lần đầu tiên cầm được mẫu dầu mỏ trên tay, bóp bóp, ngửi ngửi, thấy cái mùi dầu nó thơm mà xúc động. Tôi báo cáo về bờ, vừa run, vừa mừng. Run vì sự kiện quá lớn, mừng vì lịch sử đã sang trang”, ông kể, giọng khẽ run lên và ánh mắt rực sáng như đang nhìn vào ngọn lửa faken ngày ấy.

Ngọn lửa dầu khí được đốt lên trên tàu khoan Mikhail Mirchink

 

Sau phát hiện dầu công nghiệp năm 1984, mọi công việc tập trung vào việc mở rộng khoan thăm dò quanh khu vực Bạch Hổ. Tuy nhiên, sản lượng từ các tầng Miocen, Oligocen sau một thời gian không đạt như kỳ vọng ban đầu. Áp lực lại dâng lên, bởi cả ngành, cả nền kinh tế khi đó đang kỳ vọng vào dầu khí như một lối ra giữa giai đoạn đầy khó khăn.

“Có một mũi khoan đã đi vào tầng móng 73 mét nhưng không được chú ý. Phải hơn một năm sau, khi quay lại rửa giếng thì dòng dầu phun lên hơn 2.000 thùng mỗi ngày. Lúc bấy giờ, không ai biết chắc dầu có từ đâu. Mãi sau đó khi đối chiếu các tài liệu địa chất, chúng tôi mới khẳng định được rõ ràng: đó là dầu từ tầng đá móng”.

Từ phát hiện này, trữ lượng khai thác của Bạch Hổ tăng vọt, tạo nên sức bật chưa từng có cho ngành Dầu khí Việt Nam. Nguồn thu từ dầu đã góp phần quan trọng trong việc ổn định vĩ mô, giảm áp lực lạm phát và mở ra một chương mới cho kinh tế đất nước.

“Phải nói, những giây phút ấy... mừng lắm các đồng chí, mừng lắm anh em!” - ông kể, giọng lại run run vì xúc động. “Lúc đó, đất nước mình bị bao vây cấm vận, lạm phát ba con số, gần 800%. Đồng lương kỹ sư như tôi chỉ được hơn 100 đồng, đi chợ vài ngày là hết. Nhưng anh em chúng tôi vẫn có lòng tin, đi theo con đường tìm kiếm dầu khí cho đất nước”.

Ông lại kể tiếp: “Đến năm 1997, Vietsovpetro đã khai thác được 75 triệu tấn dầu. Đến 8 giờ sáng ngày 8/8/2012 là đạt 200 triệu tấn. Đến năm 2024 vừa rồi, tổng sản lượng khai thác của Vietsovpetro đã lên tới 250 triệu tấn”.

Chúng tôi ghi lại từng con số, rồi nhìn ông - ánh mắt sâu, không một khoảnh khắc lạc nhịp. Trí nhớ của ông như cuốn băng tư liệu được tua lại chính xác đến từng cột mốc, như thể đó chính là những ký ức đáng giá nhất trong cuộc đời mình.

Khi được điều động làm Giám đốc Petrovietnam II, ông bảo, “vừa mừng, vừa lo”. Mừng vì được tổ chức tin tưởng. Lo vì cơ sở vật chất thiếu, con người thiếu, tài chính thiếu. Có lúc còn phải vay vàng của anh em trong trạm liên lạc để bán lấy tiền trả lương.

Nhưng điều vui nhất là trong bối cảnh khó khăn như thế, Petrovietnam II đã phát hiện được mỏ khí Lan Tây (Lô 06-1). Lan Tây - Lan Đỏ cũng chính là cụm mỏ khai thác khí thiên nhiên lớn nhất Việt Nam, cho sản lượng khoảng 10 triệu m3 khí và 200 tấn condensate/ngày.

Giàn khai thác mỏ Lan Tây, Lô 06-1, thềm lục địa Việt Nam.

 

Từ ngoài khơi, khí Lan Tây được dẫn vào bờ bằng hệ thống đường ống hai pha dài gần 400 cây số. Đích đến là Phú Mỹ - một thị trấn nghèo nàn khi ấy, mà nay đã trở thành thành phố công nghiệp quan trọng phía Nam.

“Chính những người dầu khí đã làm nên chuyện đó. Từ Lan Tây bắt đường ống về, mỗi năm khai thác hơn 2 tỷ mét khối khí phục vụ cho nhà máy đạm, cho nhà máy điện. Bao nhiêu tiền làm ra từ đó”, TS Đặng Của vui vẻ kể, không giấu vẻ tự hào.

Quả vậy, những âm thầm cống hiến của những thế hệ người làm dầu khí khi ấy đã góp phần vực dậy, thay đổi cấu trúc của cả nền kinh tế..

 

“Tập đoàn bây giờ đã có tổng tài sản hơn 1 triệu tỷ đồng. Từ những ngày còn là Đoàn Địa chất Dầu lửa 36, đến hôm nay, thực là một hành trình phát triển vượt bậc.

Thành tựu ấy là nhờ vào công sức của biết bao thế hệ người lao động Petrovietnam.

Nhưng chúng tôi không bao giờ quên, các thế hệ hôm nay cũng không được quên, chính người dân Việt Nam đã từng phải chắt chiu từng đồng ngoại tệ như thế nào để chúng ta làm dầu khí. Những ngày ban đầu khó khăn, nhân dân còn đói khổ, nhưng họ vẫn góp nhặt từng đồng để mà nuôi ngành Dầu khí.

Vì vậy tôi muốn nói rằng, ngành Dầu khí có được ngày hôm nay, công lao lớn nhất chính là thuộc về nhân dân Việt Nam. Và trong đó, có chúng ta”.

TS Đặng Của

Bài viết liên quan