Điện gió ngoài khơi là một lĩnh vực cơ sở hạ tầng cần nhiều vốn đầu tư tài chính.
Xây dựng khuôn khổ tăng trưởng điện gió ngoài khơi để thúc đẩy chuyển đổi năng lượng
Hiện theo dự báo vài năm tới đây sẽ có vai trò cực kỳ quan trọng đối với tương lai của điện gió ngoài khơi. Đây là một công nghệ cơ sở hạ tầng quy mô lớn, với cơ cấu tài chính và các bên liên quan phức tạp, các dự án gió ngoài khơi đòi hỏi một khuôn khổ ổn định để phát triển với tầm nhìn rõ ràng về tương lai.
Điện gió ngoài khơi đóng vai trò quan trọng trong quá trình loại bỏ carbon
Do đó, để điện gió ngoài khơi có thể đóng một vai trò quan trọng trong quá trình loại bỏ carbon và phát triển bền vững trong các nền kinh tế trong những năm 2030 và xa hơn thế nữa, các khuôn khổ thị trường hỗ trợ phải được áp dụng ngay từ bây giờ để khai thác điện gió ngoài khơi ở cả thị trường trưởng thành và thị trường mới nổi. Khuôn khổ này bao gồm các thị trường trọng điểm và các khu vực pháp lý sau: (i) Cấp vốn đầu tư cho điện gió ngoài khơi tại các thị trường mới nổi và trưởng thành, cả Global North và Global South, (ii) Nhu cầu ngày càng gia tăng về điện gió ngoài khơi cho các nhà cung cấp công nghiệp và phát triển các sản phẩm xanh như một công cụ thúc đẩy tăng trưởng, (iii) Xây dựng chuỗi cung ứng điện gió ngoài khơi toàn cầu để giữ nhiệt độ Trái đất nóng lên dưới ngưỡng 1,5°C, (iv) Đẩy nhanh việc cấp phép cho các dự án điện gió ngoài khơi, (v) Hợp tác với cộng đồng và thúc đẩy sự đồng thuận xã hội, (vi) Hiện thực hóa và đa dạng lực lượng lao động được đào tạo, (vii) Xây dựng lưới điện hiện đại và hiệu quả để củng cố quá trình chuyển đổi năng lượng.
Vốn đầu tư cho điện gió ngoài khơi ở các thị trường mới nổi và trưởng thành
Trên toàn cầu, hiện có một lượng vốn đáng kể sẵn sàng triển khai vào lĩnh vực điện gió ngoài khơi song vẫn thiếu các dự án “có khả năng cấp vốn” được cấu trúc, cấp phép và giảm rủi ro hợp lý với các nhà cung cấp khả thi hoặc lộ trình khả thi để tiếp cận thị trường. Điện gió ngoài khơi là một lĩnh vực cơ sở hạ tầng cần nhiều vốn đầu tư tài chính. Một trong những chi phí chính mà các dự án phải đối mặt là chi phí vốn đầu tư tài chính, trong đó một tỷ lệ đáng kể chi phí dự án thường bao gồm các khoản vốn vay. Để thu hút các nhà đầu tư tư nhân, việc duy trì sự tập trung vào khả năng tài chính và khả năng thanh toán của các dự án là điều bắt buộc. Để cho phép các nhà phát triển điện gió ngoài khơi đầu tư, tính kinh tế của dự án phải phù hợp với môi trường kinh tế vĩ mô rộng hơn, có tính đến lạm phát và chi phí vốn. Ở cấp độ thị trường, đấu giá và thiết kế thị trường cũng như giá cả đặt ra trong các phiên đấu giá, đấu thầu điện gió ngoài khơi phải mang tính khả thi để đảm bảo đầu tư.
Năm 2023, lĩnh vực năng lượng bị ảnh hưởng bởi chi phí nguyên liệu thô tăng, ảnh hưởng của lạm phát cao, chi phí tài chính tăng và những bất ổn xung quanh chuỗi cung ứng và hậu cần. Chi phí than, khí đốt tự nhiên và hạt nhân đều tăng cao cũng như chi phí trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng khác. Ở các thị trường trưởng thành, với chuỗi cung ứng đã được thiết lập, điện gió ngoài khơi vẫn đem lại hiệu quả về mặt chi phí cho người tiêu dùng so với các lựa chọn cơ sở hạ tầng năng lượng khác song vẫn không tránh khỏi những thách thức kinh tế vĩ mô này. Trong các cuộc thảo luận gần đây do Liên minh gió ngoài khơi toàn cầu (GOWA) triệu tập, những người tham dự đã nhấn mạnh các rào cản phi tài chính đã cản trở khả năng vay vốn của các dự án, dẫn đến sự sai lệch giữa các dự án khả thi và vốn khả dụng. Những rào cản này bao gồm sự thiếu rõ ràng về chính sách, các ràng buộc giả tạo về quy mô thị trường, hạn chế quy mô thị trường một cách giả tạo bằng cách hạn chế số lượng GW công suất có thể được xây dựng, các yêu cầu cấp phép phức tạp hoặc không rõ ràng, song điều quan trọng nhất là thiếu một quy định rõ ràng. đường tiếp cận thị trường hoặc các kế hoạch đấu giá được thiết kế tồi. Phần này vạch ra những hành động thiết thực có thể được thực hiện để cải thiện những thách thức của dự án phi tài chính này. Như GWEC đã lưu ý trước đây, hiện cũng có mối lo ngại đáng kể trong lĩnh vực liên quan đến “cuộc đua đấu giá đến mức đáy”. Sự mất cân đối trong thị trường và quy định có lợi cho các dự án có giá thầu thấp nhất, cùng với các cuộc đấu giá giới hạn lượng GW công suất có thể được xây dựng đã dẫn đến cuộc đua bỏ giá thầu xuống mức đáy về giá cả điện gió.
Hiện những khuyến nghị nhằm cải thiện khả năng thanh toán ở các thị trường phát triển, bao gồm: giá điện gió ngoài khơi phải khả thi để tạo dựng niềm tin kinh doanh, do đó đảm bảo đầu tư; cân bằng giữa chi phí và giá trị, chấm dứt cơ chế đấu thầu cạnh tranh xuống mức giá đáy, tránh đấu thầu tiêu cực, tăng cường ưu tiên đưa GW công suất vào thị trường toàn cầu; cơ chế chính sách nên tính đến các tác động lạm phát và phản ánh những tác động này trong giá cả thực hiện/thông số đấu thầu thông qua chỉ số hóa và các phương pháp khác.
Chi phí vốn: Chi phí vốn là tỷ suất lợi nhuận tối thiểu mà ngân hàng (khi cho vay) hoặc công ty phải kiếm được từ các khoản đầu tư của mình nhằm đáp ứng kỳ vọng của các nhà đầu tư/cổ đông. Chi phí vốn bình quân gia quyền (weighted average cost of capital -WACC) thể hiện chi phí tài chính mà một công ty phải chịu để huy động vốn từ cả nguồn vay nợ và vốn cổ phần, bao gồm lãi suất trả cho khoản vay nợ và lợi nhuận mà các nhà đầu tư cổ phần kỳ vọng.
Những thách thức kinh tế vĩ mô của Hoa Kỳ và Vương quốc Anh
Năm 2023, thị trường điện gió ngoài khơi của Hoa Kỳ và Vương quốc Anh đều phải đối mặt với những thách thức gay gắt do sự kết hợp của áp lực lạm phát cao, lãi suất tăng và các vấn đề chính sách. Một số dự án đã được chốt giá bao tiêu sản phẩm trong thời kỳ chi phí thấp lịch sử trước đại dịch COVID-19 và cuộc chiến ở Ukraine, đã hứng chịu ảnh hưởng đặc biệt. Tại Hoa Kỳ, các dự án “làn sóng đầu tiên” quan trọng nhằm thiết lập và mở rộng chuỗi cung ứng điện gió ngoài khơi đã gặp nguy hiểm với 12 GW công suất dự án bị ảnh hưởng. Trong số này, chín dự án, với tổng công suất 7,7 GW, đã chấm dứt hợp đồng bao tiêu hoặc ngừng phát triển toàn bộ dự án. Hiện các dự án này phải đối mặt với những thách thức, bao gồm lãi suất ngày càng tăng, sự không chắc chắn về quy định, cấp phép chậm và các quy định về cấp độ địa phương không thể đạt được cũng như những khó khăn ngày càng gia tăng mà một lĩnh vực còn tương đối non trẻ gặp phải song tình hình hiện đang dần được cải thiện khi mà giá bao tiêu mới cho các dự án điện gió ngoài khơi của tiểu bang New York đã được công bố (6/2024).
Tại Vương quốc Anh, cuộc đấu giá AR5 gần đây đã kết thúc mà không có giá thầu nào được bỏ chủ yếu do thiếu chỉ số giá cả hàng hóa và giá khởi điểm (administrative strike prices-ASP) đặt ra mức giá tối đa trên cơ sở giá mỗi MWh mà chính phủ sẵn sàng đưa ra cho các nhà phát triển cho từng loại công nghệ, thì lại được đặt ở mức thấp phi thực tế. Cấu trúc dạng một “nồi” nấu của hợp đồng chênh lệch (contract for difference-CfD) là hợp đồng giữa nhà đầu tư và tổ chức tài chính, trong đó nhà đầu tư nắm giữ vị thế về giá trị tương lai của một tài sản với sự khác biệt giữa giá giao dịch mở và đóng được thanh toán bằng tiền mặt, cũng đã được thay đổi, dẫn đến điện gió ngoài khơi, điện mặt trời và điện gió trên bờ được túm lại với nhau trong một nồi. Kể từ đó, Chính phủ Vương quốc Anh đã công bố các ASP sửa đổi cho phiên đấu giá CfD AR6 tiếp theo, nâng mức trần giá tối đa lên 66%, điều này thể hiện giới hạn trên của giá thực hiện sẽ được ký kết hợp đồng trong phiên đấu giá tiếp theo.
Tài trợ cho gió ngoài khơi: Sự thách thức đối với các nền kinh tế đang phát triển
Hãng tin Bloomberg New Energy Finance (BNEF) gần đây đã công bố báo cáo về xu hướng đầu tư chuyển đổi năng lượng 2024 với lưu ý trong năm 2023, đã có 1,77 nghìn tỷ USD đầu tư cho quá trình chuyển đổi năng lượng, trong đó, khoản tiền lớn nhất được dành cho năng lượng tái tạo (RE) và lưới điện (gần 1 nghìn tỷ USD tổng hợp). Sau lĩnh vực điện lực, giao thông điện khí hóa là điểm đến lớn nhất của dòng vốn chuyển đổi năng lượng, tất nhiên, cần phải sử dụng RE không có carbon để sản xuất điện thực sự “sạch”. Để đáp ứng mục tiêu giữ nhiệt độ Trái đất nóng lên dưới ngưỡng 1,5°C theo Thỏa thuận Paris cũng như các cam kết về mức phát thải net-zero của nhiều quốc gia và đoanh nghiệp, bên cạnh những cam kết của COP28 về tăng gấp ba lần năng lượng tái tạo, BNEF dự báo sẽ cần 12 nghìn tỷ USD đầu tư vào hệ thống điện cho đến năm 2030, tức trung bình 2 nghìn tỷ USD mỗi năm bắt đầu từ năm 2024. Điều này thể hiện sự gia tăng đáng kể từ các khoản đầu tư hàng năm hiện tại vào RE, trong đó phần lớn khoản đầu tư này cần hướng tới các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển (EMDE).
Tuy nhiên, lịch sử gần đây chứng minh việc đầu tư vào RE ở EMDE đang giảm dần khi so sánh các khoản đầu tư vào năng lượng sạch với GDP thì các nước EMDE nhận được mức đầu tư ít hơn đáng kể so với Trung Quốc hoặc các nền kinh tế tiên tiến song điều quan trọng là phải đưa thêm nhiều nguồn RE và năng lượng sạch khác đến EMDE thời gian tới. Trong thập kỷ qua, hơn 95% mức tăng phát thải khí nhà kính GHG xảy ra ở các EMDE, nơi sẽ là nguồn gốc của 98% tăng trưởng dân số thế giới vào cuối thập kỷ này, do vậy, các nước EMDE rõ ràng cần đầu tư nhiều hơn vào năng lượng sạch bằng cách đẩy nhanh việc triển khai năng lượng gió ngoài khơi.
Điện gió ngoài khơi là một khối xây dựng quan trọng của bất kỳ tương lai loại bỏ carbon nào. Tại nhiều nước EMDE đang phát triển nhanh chóng ở châu Á như Việt Nam, Philippines và CH Ấn Độ, điện gió ngoài khơi có thể cung cấp năng lượng liên tục, quy mô lớn, do đó, đây được coi là công nghệ chuyển đổi năng lượng quan trọng. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia trong số này (trừ Trung Quốc), lĩnh vực này cũng đang phải đối mặt với chi phí vốn đầu tư tài chính tương đối cao do nhận thấy nhiều rủi ro. Điều này đặt ra một thách thức bởi vì khi chi phí vốn vốn bình quân gia quyền WACC cao hơn 1%, tổng chi phí CAPEX cho một dự án điện gió ngoài khơi sẽ tăng khoảng 8%. Do đó, chi phí vốn cao hơn đóng một vai trò rất lớn trong tổng chi phí của điện gió ngoài khơi. Chi phí tài chính tăng đáng kể đối với nhiều dự án điện gió ngoài khơi là điều hiển nhiên, với các chỉ số lãi suất chính ví dụ như lãi suất tài trợ qua đêm có bảo đảm (secured overnight financing rate-SOFR) tăng từ 1% lên 2% (2019), thậm chí đạt gần 0% (2020), sau tăng vọt lên 5,4% (5/2024).
Hiện đứng đầu ngoài các chỉ số, các ngân hàng còn thường tính phí bảo hiểm tùy thuộc vào quan điểm của họ về thị trường, công nghệ và các rủi ro liên quan khác đến dự án. Trong khi một số rủi ro có thể được định lượng và giảm thiểu (ví dụ như: thông qua bảo hiểm, yêu cầu giám sát, bảo lãnh của chính phủ, phòng ngừa rủi ro tiền tệ, v.v.), nhiều rủi ro không thể và phải dựa vào mức độ “ưu ái” của ngân hàng. “Sự ưu ái” là một thước đo chủ quan, với các tổ chức tài chính khác nhau có tiêu chí và đánh giá riêng, song “sự ưu ái” cũng thường được hỗ trợ bởi phân tích định lượng sâu rộng. Khi thiếu hiểu biết về rủi ro, ngân hàng có xu hướng tăng phí bảo hiểm, đây được coi là một phần lý do tại sao các nhà phát triển dự án dành nhiều thời gian để đào tạo các ngân hàng, chia sẻ các khía cạnh của dự án, xây dựng niềm tin vào đội ngũ quản lý và đưa các chủ ngân hàng đi tham quan các cơ sở dự án đã hoàn thiện, v.v.
Hiện chúng ta có thể làm gì để thay đổi nhận thức về rủi ro tài chính ở EMDE? Bài học từ Hiệp hội năng lượng gió WindEurope (2023) trước đây cho biết bất chấp các yêu cầu về nguồn vốn đầy thách thức, cả nhà đầu tư truyền thống và nhà đầu tư mới đều có vẻ lạc quan và sẵn sàng tiếp tục đầu tư vào năng lượng gió ngoài khơi. Theo họ, yếu tố rủi ro quan trọng nhất không phải là nguồn vốn sẵn có mà là sự bất ổn về quy định chính sách. Rõ ràng, mức độ không chắc chắn cao đi kèm với việc thay đổi khung pháp lý đã làm chậm quá trình triển khai năng lượng gió ngoài khơi ở nhiều nước châu Âu, đặc biệt là ở hai thị trường lớn nhất là Vương quốc Anh và CHLB Đức. Nếu châu Âu đảm bảo khuôn khổ ổn định cho điện gió ngoài khơi thì nguồn vốn cần thiết có thể vẫn được chuyển vào lĩnh vực này với quỹ đạo của phí bảo hiểm rủi ro ở châu Âu trong những ngày đầu của các dự án gió ngoài khơi quy mô lớn (giai đoạn 2011-2019). Khi thị trường điện gió ngoài khơi châu Âu phát triển và các ngân hàng trở nên thoải mái hơn với cách quản lý rủi ro cũng như các khung chính sách và quy định được đưa ra, phí bảo hiểm rủi ro giảm đáng kể từ khoảng 325 điểm cơ bản (hoặc 3,25%) xuống còn khoảng 150 điểm cơ bản trên lãi suất LIBOR (LIBOR đã được thay thế bằng lãi suất SOFR). Việc giảm mạnh phí bảo hiểm rủi ro trên có thể làm giảm CAPEX của dự án khoảng 15%- một thay đổi đáng kể đối với bất kỳ dự án vốn quy mô lớn nào như điện gió ngoài khơi (và năng lượng mặt trời, pin, nâng cấp lưới điện...).
Link nguồn:
https://www.connaissancedesenergies.org/sites/connaissancedesenergies.org/files/pdf-actualites/GOWR-2024_digital_final_2.pdf
Theo pvn.vn