Theo PGS.TS Ngô Trí Long, để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, Việt Nam cần một thể chế tài chính đủ mạnh để khơi thông hàng trăm tỷ USD cho quá trình chuyển dịch năng lượng. Đây là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, rào cản lớn nhất hiện nay nằm ở chính sách tài chính chưa theo kịp các mục tiêu phát triển xanh đề ra.
Loạt bất cập trong cơ cấu tài chính chuyển dịch năng lượng
Tại Diễn đàn Dầu khí - Năng lượng thường niên năm 2025 với chủ đề “Chuyển dịch năng lượng: Tầm nhìn và hành động”, do Hội Dầu khí Việt Nam phối hợp cùng Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) tổ chức, chuyên gia kinh tế, PGS.TS Ngô Trí Long đã chỉ ra hàng loạt bất cập trong cơ cấu tài chính phục vụ chuyển dịch năng lượng. Đầu tiên, tỷ trọng vốn đầu tư công giảm mạnh, từ 35% giai đoạn 2010-2015 xuống còn chưa đến 20% hiện nay, trong khi khu vực tư nhân vẫn gặp khó do thiếu cơ chế chia sẻ rủi ro. Bên cạnh đó, mức độ giải ngân vốn ODA và các khoản vay ưu đãi chỉ đạt khoảng 35-40% kế hoạch, do vướng mắc về cơ chế phê duyệt dự án, hợp đồng mua bán điện (PPA) và định giá tín chỉ carbon.
Chuyên gia kinh tế, PGS.TS Ngô Trí Long tham luận tại Diễn đàn Dầu khí - Năng lượng thường niên năm 2025 |
Đặc biệt, thị trường tài chính xanh trong nước còn non trẻ. Năm 2024, trái phiếu xanh chỉ chiếm khoảng 1,5% tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp, trong khi các công cụ như sàn giao dịch carbon, quỹ bảo lãnh tín dụng xanh vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Kết quả là, hàng loạt dự án chiến lược từ điện gió ngoài khơi, thủy điện tích năng đến điện khí LNG… bị đình trệ do thiếu vốn.
Một trong những điểm nghẽn lớn trong thu hút nguồn vốn xanh là cơ chế giá điện và PPA. Theo PGS.TS Ngô Trí Long, giá trần điện tái tạo hiện chưa phản ánh đúng mức độ rủi ro tài chính. Đơn cử, giá điện gió trên bờ chỉ ở mức 6,7 cent/kWh, thấp hơn đáng kể so với khuyến nghị 7-9 cent/kWh của Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế (IRENA) đối với khu vực Đông Nam Á. Trong khi đó, các hợp đồng PPA còn thiếu tính ràng buộc về pháp lý và tài chính, không có điều khoản "take-or-pay", không có cơ chế bảo lãnh tỷ giá - yếu tố then chốt trong các khoản vay quốc tế. Chính những bất cập này khiến các định chế tài chính như Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) và nhiều ngân hàng thương mại quốc tế không thể xếp hạng tín dụng các dự án năng lượng tái tạo tại Việt Nam ở mức chấp nhận được để giải ngân.
Đồng thời, thị trường tài chính xanh trong nước vẫn chưa có luật khung riêng. Trái phiếu xanh chưa có tiêu chuẩn phân loại “xanh” quốc gia, thiếu ưu đãi thuế và bảo lãnh phát hành. Thị trường carbon còn trong giai đoạn sơ khai, chưa có hệ thống giám sát - xác minh (MRV), khiến doanh nghiệp khó chứng minh hiệu quả cắt giảm phát thải để huy động vốn quốc tế. Tính đến nay, Việt Nam mới chỉ tiếp cận được chưa tới 300 triệu USD từ Quỹ Khí hậu Xanh (GCF), thấp hơn đáng kể so với Philippines hay Bangladesh - những quốc gia đã có luật tài chính khí hậu và định chế tài chính xanh hoạt động hiệu quả.
Khơi thông và lan tỏa nguồn vốn cho nền kinh tế năng lượng mới
Theo PGS.TS Ngô Trí Long, với tỷ trọng đầu tư công ngày càng thu hẹp, vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước mang tính dẫn dắt như Petrovietnam ngày càng trở nên then chốt trong khơi thông và lan tỏa nguồn vốn cho nền kinh tế năng lượng mới.
Petrovietnam đang từng bước tái định vị vai trò từ nhà khai thác và chế biến dầu khí trở thành nhà đầu tư năng lượng tích hợp, bao gồm: điện gió, điện khí/LNG, hydrogen, truyền tải điện và lưu trữ năng lượng. Với nền tảng kỹ thuật vững chắc và tiềm lực tài chính dồi dào, Petrovietnam hoàn toàn có đủ năng lực dẫn dắt các dự án năng lượng mới, tạo sức lan tỏa về vốn và công nghệ.
Theo PGS.TS Ngô Trí Long, cần một thể chế tài chính đủ mạnh để khơi thông hàng trăm tỷ USD cho quá trình chuyển dịch năng lượng (Ảnh minh họa) |
Để thực sự là tập đoàn tiên phong, dẫn dắt khơi thông dòng vốn xanh, PGS.TS Ngô Trí Long cho rằng, Petrovietnam có thể xem xét thành lập Quỹ đầu tư chuyển dịch năng lượng theo mô hình Blended Finance - cơ chế tài chính đang được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế áp dụng nhằm chia sẻ rủi ro, tận dụng vốn mồi từ khu vực công để thu hút dòng vốn tư nhân. Nguồn vốn chính cho Quỹ được trích lập từ phần lợi nhuận tái đầu tư từ hoạt động dầu khí truyền thống. Trong giai đoạn 2020-2024, lợi nhuận sau thuế toàn Petrovietnam đạt bình quân khoảng 27.000-30.000 tỷ đồng/năm (theo báo cáo hợp nhất), trong đó riêng lĩnh vực thượng nguồn (PVEP, Vietsovpetro) đóng góp tới 70%. Nếu phân bổ 10-15% lợi nhuận ròng mỗi năm cho Quỹ chuyển dịch năng lượng, Petrovietnam có thể hình thành nguồn vốn mồi khoảng 3.000-4.500 tỷ đồng/năm (tương đương 120-180 triệu USD) - đủ để triển khai giai đoạn đầu của một số dự án thí điểm hoặc đồng tài trợ với tổ chức quốc tế.
“Các doanh nghiệp nhà nước hàng đầu sẽ không chỉ là “trụ cột kỹ thuật” mà còn cần trở thành tổ chức kiến tạo thị trường vốn năng lượng quốc gia, góp phần định hình hệ sinh thái tài chính xanh cho Việt Nam trong dài hạn”, PGS. TS Ngô Trí Long nhận định
Cũng theo PGS.TS Ngô Trí Long, để hiện thực hóa các mục tiêu chuyển dịch năng lượng, Việt Nam cần khẩn trương ban hành Luật Tài chính Xanh, hoàn thiện cơ chế thị trường carbon, xây dựng chuẩn mực trái phiếu xanh quốc gia, sửa đổi PPA theo hướng hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư. Đồng thời, thiết lập các định chế tài chính công - tư như Quỹ chuyển dịch năng lượng, Ngân hàng Xanh - để huy động và dẫn dắt dòng vốn dài hạn, bền vững.
theo tin từ petrotimes