Tin Tập đoàn

“STEM Innovation Petrovietnam” - Cú hích hạ tầng mạnh cho giáo dục STEM phổ thông

Trao đổi với phóng viên PetroTimes, Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Hà Ánh Phượng nhận định rằng, chương trình “STEM Innovation Petrovietnam” có ý nghĩa rất lớn cả trước mắt lẫn lâu dài. Việc đầu tư 100 phòng STEM đạt chuẩn quốc tế trên phạm vi 34 tỉnh, thành tạo cú hích mạnh cho hạ tầng giáo dục STEM phổ thông, giúp nhiều trường, đặc biệt ở vùng khó khăn, có không gian học tập hiện đại, nơi học sinh được “học qua làm”, thí nghiệm, thiết kế và giải quyết vấn đề thực tiễn.

Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, không chỉ tập trung tháo gỡ các “điểm nghẽn” về thể chế, nguồn lực, cơ sở vật chất, mà còn mở đường cho các mô hình giáo dục mới như STEM/STEAM, trường chuyên - năng khiếu thế hệ mới, hợp tác Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp và phát triển hạ tầng giáo dục số.

Đặc biệt, những sáng kiến xã hội hóa mạnh mẽ như chương trình “STEM Innovation Petrovietnam” - với mục tiêu xây dựng 100 phòng STEM đạt chuẩn quốc tế tại 34 tỉnh, thành phố, đang góp phần tạo thêm động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong trường học, phù hợp tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW.

Nhân sự kiện này, bên lề Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, phóng viên đã có cuộc trao đổi với ĐBQH Hà Ánh Phượng (Đoàn Phú Thọ), là giáo viên Việt Nam đầu tiên vào top 10 giáo viên toàn cầu do Quỹ Varkey (Varkey Foundation) lựa chọn năm 2020, để hiểu rõ hơn những điểm mới, tác động và yêu cầu triển khai của Nghị quyết.

ĐBQH Hà Ánh Phượng trao đổi với phóng viên PetroTimes bên lề Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

PV: Thưa bà, dự thảo Nghị quyết về cơ chế đặc thù cho giáo dục được xem là bước đi quan trọng nhằm tháo gỡ các “điểm nghẽn” về thể chế, nhân lực và tài chính. Bà đánh giá như thế nào về ý nghĩa và tác động tổng thể của Nghị quyết này đối với quá trình hiện đại hóa giáo dục Việt Nam trong giai đoạn tới?

ĐBQH Hà Ánh Phượng: Nghị quyết này là một “đòn bẩy” lớn cho giáo dục trong giai đoạn tới, nhằm thể chế hóa Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Điểm quan trọng nhất là Nghị quyết tập trung vào ba nút thắt lâu nay: hoàn thiện thể chế, nâng chất lượng và sức hút đội ngũ, tăng nguồn lực tài chính - đầu tư. Nếu triển khai hiệu quả, Nghị quyết sẽ giúp chuẩn hóa điều kiện dạy học giữa các vùng, tạo động lực giữ chân, thu hút giáo viên giỏi, đồng thời mở đường cho hiện đại hóa thông qua tự chủ, chuyển đổi số và huy động xã hội hóa minh bạch. Nói gọn lại, đây là nền tảng để giáo dục Việt Nam phát triển công bằng hơn, chất lượng hơn và bắt kịp yêu cầu mới của thời đại.

PV: Một trong những điểm mới đáng chú ý là đổi mới mô hình trường chuyên, năng khiếu và mở rộng lớp học STEM/STEAM để ươm tạo nhân tài quốc gia. Theo bà, để việc mở rộng này thực chất và bền vững, cần có cơ chế đặc thù nào về chương trình, đội ngũ và đầu tư hạ tầng?

ĐBQH Hà Ánh Phượng: Theo tôi, để mở rộng trường chuyên, năng khiếu và các lớp STEM/STEAM thực chất, bền vững, cần có cơ chế đặc thù đồng bộ ở ba khâu: chương trình, con người và hạ tầng.

Trước hết, chương trình cần được phân hóa sâu và linh hoạt theo mô-đun, tăng thời lượng nghiên cứu - dự án - thực hành, trao quyền tự chủ học thuật cho nhà trường, liên kết với các trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp để cùng xây dựng học liệu và công nhận sản phẩm dự án như một hình thức đánh giá năng lực cốt lõi.

Song song đó, cần thiết lập cơ chế tuyển chọn và đãi ngộ riêng cho giáo viên trường chuyên, giáo viên STEM/STEAM và nhân viên trường học liên quan, với phụ cấp, thu nhập và lộ trình nghề nghiệp cao hơn; giảm gánh nặng hành chính để tập trung mentoring, nghiên cứu; đồng thời mở cửa cho giảng viên thỉnh giảng, chuyên gia kỹ thuật tham gia giảng dạy theo hợp đồng linh hoạt, được hỗ trợ bởi kỹ thuật viên phòng lab và cố vấn nghiên cứu.

Cùng với đó, đầu tư hạ tầng phải “đủ mạnh và đủ lâu”, bao gồm: phòng thí nghiệm đạt chuẩn, makerspace/xưởng sáng tạo, thiết bị số và dữ liệu học tập, cùng với kinh phí vận hành và bảo trì hằng năm. Với vùng khó khăn, có thể xây trung tâm STEM dùng chung theo cụm trường, cơ chế mua sắm nhanh gọn và hợp tác công tư minh bạch.

Nhìn chung, muốn ươm tạo nhân tài quốc gia, không chỉ cần mở rộng mô hình, mà còn phải trao quyền tự chủ đúng mức, đãi ngộ đúng tầm và đầu tư đúng trọng tâm.

PV: Dự thảo cũng đề xuất thí điểm mô hình hợp tác giữa Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp nhằm xây dựng nền tảng giáo dục quốc gia thông minh, với “gia sư ảo” cho học sinh và “trợ lý ảo” cho giáo viên. Bà nhìn nhận ra sao về khả năng triển khai thực tế của mô hình này và những vấn đề nào cần lưu ý để bảo đảm tính nhân văn, bản sắc trong giáo dục?

ĐBQH Hà Ánh Phượng: Theo tôi, mô hình hợp tác Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp để xây dựng nền tảng giáo dục quốc gia thông minh là hướng đi rất khả thi và đúng xu thế, bởi Nhà nước có vai trò kiến tạo tiêu chuẩn - dữ liệu - an toàn, nhà trường cung cấp nhu cầu sư phạm và bối cảnh thực tiễn, còn doanh nghiệp sở hữu năng lực công nghệ và tốc độ triển khai. Nếu ba bên phối hợp chặt chẽ, “gia sư ảo” có thể giúp cá thể hóa việc học, hỗ trợ học sinh yếu - giỏi theo nhịp riêng, còn “trợ lý ảo” giúp giảm tải công việc hành chính, gợi ý học liệu và theo dõi tiến bộ để giáo viên tập trung nhiều hơn vào giảng dạy và chăm sóc học sinh.

Tuy vậy, muốn triển khai nhân văn và giữ bản sắc Việt Nam, cần lưu ý một số điểm: AI chỉ là công cụ hỗ trợ, không thay thế vai trò thầy cô và tương tác người - người; nội dung số phải tuân thủ chương trình quốc gia, ngôn ngữ, lịch sử, văn hóa và giá trị Việt, tránh nhập khẩu máy móc; dữ liệu học sinh/giáo viên phải được bảo vệ nghiêm ngặt, có cơ chế kiểm định thuật toán, chống thiên lệch và thương mại hóa giáo dục; đồng thời bảo đảm công bằng số để học sinh vùng khó khăn vẫn tiếp cận được. Tóm lại, khi xây dựng được những “lan can” về đạo đức, pháp lý và sư phạm, mô hình này vừa hiện đại, vừa nhân văn, đồng thời củng cố chất Việt trong giáo dục.

Học sinh Trường THCS Hướng Đạo (xã Tam Dương, tỉnh Phú Thọ) thực hành trong phòng STEM do Petrovietnam tài trợ

PV: Vừa qua, từ ý tưởng của Tổng Bí thư Tô Lâm, Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đã có sáng kiến triển khai chương trình “STEM Innovation Petrovietnam”, với mục tiêu xây dựng 100 phòng STEM đạt chuẩn quốc tế tại 34 tỉnh, thành phố trên cả nước. Theo bà, chương trình này có ý nghĩa, tác động như thế nào đến giáo dục STEM trong thời gian tới?

ĐBQH Hà Ánh Phượng: Tôi cho rằng, chương trình “STEM Innovation Petrovietnam” có ý nghĩa rất lớn cả trước mắt lẫn lâu dài. Việc đầu tư 100 phòng STEM đạt chuẩn quốc tế trên phạm vi 34 tỉnh, thành tạo cú hích mạnh cho hạ tầng giáo dục STEM phổ thông, giúp nhiều trường, đặc biệt ở vùng khó khăn, có không gian học tập hiện đại, nơi học sinh được “học qua làm”, thí nghiệm, thiết kế và giải quyết vấn đề thực tiễn.

Chương trình còn tạo ra một mạng lưới phòng STEM liên thông toàn quốc, có chuẩn vận hành và kết nối chia sẻ học liệu, sân chơi sáng tạo giữa các địa phương, qua đó nâng cao mặt bằng chất lượng STEM và thu hẹp chênh lệch vùng miền.

Về lâu dài, đây là cách ươm mầm nhân lực khoa học, công nghệ rất thiết thực, góp phần chuyển dạy học từ nặng lý thuyết sang phát triển năng lực sáng tạo, đồng thời gắn nhà trường với nhu cầu nhân lực của nền kinh tế tri thức và các ngành công nghiệp mũi nhọn.

Nếu được triển khai đồng bộ cùng với đào tạo giáo viên, ngân sách vận hành và cơ chế phối hợp hiệu quả với ngành giáo dục, chương trình hứa hẹn mang lại tác động lan tỏa, ổn định và bền vững cho STEM Việt Nam trong thời gian tới.

PV: Thưa bà, việc xây dựng phòng STEM được kỳ vọng thúc đẩy nghiên cứu, thực hành và đổi mới sáng tạo trong trường học. Theo bà, đâu là yếu tố then chốt để các phòng STEM thực sự trở thành “hạ tầng mở” phục vụ đào tạo gắn kết với doanh nghiệp và sản xuất?

ĐBQH Hà Ánh Phượng: Theo tôi, yếu tố then chốt là cơ chế vận hành mở đi kèm chuẩn chất lượng, chứ không chỉ dừng ở việc “có phòng, có thiết bị”. Cụ thể, phòng STEM phải có chương trình hoạt động gắn với dự án thực tiễn, cho phép doanh nghiệp tham gia ngay từ khâu đặt bài toán, hướng dẫn và đánh giá sản phẩm; đồng thời nhà trường cần có đội ngũ giáo viên nòng cốt có năng lực tổ chức học theo dự án, cùng kỹ thuật viên hỗ trợ để phòng hoạt động thường xuyên như một “xưởng sáng tạo” thật sự.

Bên cạnh đó, phải có ngân sách vận hành, bảo trì, cập nhật học liệu hằng năm và quy chế chia sẻ dùng chung cho cụm trường, cộng đồng, để phòng STEM trở thành “hạ tầng mở” đúng nghĩa. Nói ngắn gọn, mở được cơ chế, mở được con người và mở được cách sử dụng thì phòng STEM mới tạo ra đổi mới sáng tạo gắn với doanh nghiệp và sản xuất, thay vì chỉ là mô hình trưng bày.

PV: Vậy theo bà, cần có chính sách gì để đủ sức thu hút, giữ chân và tạo động lực cho giáo viên, đặc biệt là giáo viên trong lĩnh vực STEM, vốn đang rất khan hiếm?

ĐBQH Hà Ánh Phượng: Theo tôi, muốn thu hút được giáo viên giỏi và giữ họ lâu dài - nhất là nhóm STEM, cần thực hiện đồng bộ ba nhóm giải pháp: Thứ nhất, đãi ngộ cạnh tranh và đúng đặc thù nghề: thực thi Luật Nhà giáo và các nghị định hướng dẫn theo hướng lương nhà giáo ở mức cao, có hệ số lương đặc thù và phụ cấp ưu đãi tăng, kèm phụ cấp trách nhiệm cho dạy thực hành, phòng thí nghiệm, CLB/dự án STEM và thưởng theo kết quả chuyên môn - “càng giỏi càng đáng giá”.

Thứ hai, tạo nguồn đầu vào mạnh bằng học bổng, miễn/giảm học phí, tín dụng học tập và tuyến chuyển đổi cho cử nhân kỹ thuật, công nghệ vào sư phạm STEM, có ràng buộc phục vụ, đảm bảo đúng định hướng phát triển nhân lực khoa học, công nghệ. Thứ ba, môi trường làm việc xứng đáng: giảm tải hành chính, đầu tư phòng lab/không gian sáng tạo và cho phép chuyên gia doanh nghiệp tham gia dạy kiêm nhiệm để giáo viên được làm nghề đúng nghĩa và có cộng đồng nghề nghiệp hỗ trợ.

ĐBQH Hà Ánh Phượng phát biểu tại nghị trường

PV: Nhìn về dài hạn, với mục tiêu đến năm 2030 phổ cập giáo dục chất lượng cao, theo bà, cần chuẩn bị những điều kiện gì ngay từ bây giờ để bảo đảm đồng bộ về nguồn lực, cơ chế và con người, giúp STEM thực sự trở thành động lực của nền kinh tế tri thức Việt Nam?

ĐBQH Hà Ánh Phượng: Nhìn về dài hạn, theo tôi, cần chuẩn bị một hệ điều kiện đồng bộ để phổ cập giáo dục chất lượng cao và biến STEM thành động lực của kinh tế tri thức. Trước hết là bảo đảm nguồn lực tài chính đủ mạnh và ổn định, có cơ chế đặc thù ưu tiên cho STEM, chuyển đổi số và AI trong trường phổ thông, đồng thời huy động hiệu quả nguồn lực xã hội và hợp tác quốc tế.

Song song đó, cần xây dựng đội ngũ giáo viên STEM đủ về số lượng và vững về chất lượng bằng chính sách lương, phụ cấp hấp dẫn, lộ trình nghề nghiệp rõ ràng, cùng chương trình đào tạo/bồi dưỡng thường xuyên về dạy học thực nghiệm, dự án, năng lực số và AI.

Tiếp đó, hoàn thiện chương trình, học liệu và kiểm tra đánh giá theo năng lực, chú trọng giải quyết vấn đề, thiết kế kỹ thuật, sáng tạo và khởi nghiệp đổi mới; không thể thiếu hạ tầng học tập hiện đại, đảm bảo công bằng vùng miền như phòng thí nghiệm, không gian sáng tạo, Internet và nền tảng học tập số để thu hẹp khoảng cách đô thị, nông thôn; tạo hệ sinh thái liên thông nhà trường - doanh nghiệp để học sinh được học qua bài toán thực tiễn, thầy cô có hỗ trợ chuyên môn và nguồn lực, doanh nghiệp có kênh bồi dưỡng nhân tài.

Cuối cùng, cần đổi mới quản trị giáo dục theo hướng dựa trên dữ liệu, trao quyền tự chủ cho cơ sở, gắn với trách nhiệm giải trình, để mọi đầu tư và chính sách STEM đi vào thực chất.

Chỉ khi chuẩn bị đồng bộ những điều kiện ấy ngay từ bây giờ, STEM mới chuyển từ phong trào sang nền tảng bền vững cho phát triển đất nước.

PV: Để những sáng kiến như “STEM Innovation Petrovietnam” có thể lan tỏa, theo bà có cần một khung thể chế khuyến khích rõ ràng cho doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục và đổi mới sáng tạo?

ĐBQH Hà Ánh Phượng: Theo tôi, rất cần một khung thể chế khuyến khích rõ ràng và đủ mạnh, bởi nếu chỉ trông vào tinh thần tự nguyện thì những mô hình như “STEM Innovation Petrovietnam” sẽ khó có lan tỏa sâu rộng và duy trì bền vững. Khung này cần thực hiện ba nhiệm vụ chính: tạo động lực kinh tế cụ thể cho doanh nghiệp khi đầu tư vào giáo dục - đổi mới sáng tạo như ưu đãi thuế, tính chi phí STEM vào chi phí hợp lý, cơ chế PPP minh bạch, quỹ đồng tài trợ nghiên cứu - phòng lab; bảo đảm hành lang pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp được tham gia sâu vào nhà trường: thỉnh giảng, đặt hàng dự án học sinh, cùng xây dựng học liệu, chuẩn phòng thí nghiệm, chia sẻ thiết bị, chuyển giao công nghệ; và có cơ chế ghi nhận, xếp hạng, tôn vinh và nhân rộng các doanh nghiệp làm tốt, gắn với trách nhiệm xã hội và chiến lược nhân lực quốc gia.

Khi lợi ích, trách nhiệm, quyền tham gia được luật hóa rõ, doanh nghiệp sẽ xem đầu tư cho STEM là đầu tư dài hạn cho chính mình và cho năng lực cạnh tranh quốc gia.

PV: Xin cảm ơn bà!

Bài viết liên quan