Trong suy nghĩ của không ít người, Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) vẫn được hình dung đơn giản như tập đoàn khai thác dầu khí. Cách nhìn ấy không sai, nhưng theo PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, điều đó chỉ phản ánh một phần của hệ sinh thái Petrovietnam khổng lồ - tổ hợp của nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ phức tạp, nơi hội tụ trí tuệ và mồ hôi của nhiều thế hệ người lao động trong 50 năm hình thành và phát triển.
Đằng sau 1 thùng dầu thô là sự kết hợp tinh vi của nhiều ngành khoa học phức tạp
Trao đổi với PV, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, Giảng viên cao cấp tại Viện Thương mại và Kinh tế Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, để hiểu đúng về Petrovietnam, không thể chỉ nhìn vào những tấn dầu thô được đưa lên từ đáy biển, mà phải nhìn vào toàn bộ chuỗi giá trị năng lượng hoàn chỉnh mà Tập đoàn đang tạo dựng, góp phần quan trọng quyết định an ninh năng lượng quốc gia và tạo nền tảng cho sự phát triển của đất nước trong nhiều thập niên tới.
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 29-NQ/TW đề cập đến việc khuyến khích hiệu quả năng lượng và các mô hình sử dụng tài nguyên hiệu quả trong công cuộc đẩy mạnh hiện đại hóa - công nghiệp hóa đất nước; các nghị quyết mới nhất về an ninh năng lượng như Nghị quyết 55-NQ/TW, Nghị quyết 70-NQ/TW tập trung vào bảo đảm cung cấp năng lượng đầy đủ, ổn định, chất lượng cao, giảm phát thải và chuyển đổi năng lượng; Nghị quyết 41-NQ/TW đặt ra các định hướng chiến lược phát triển ngành dầu khí cùng với đó là Luật Dầu khí sửa đổi nhằm tạo hành lang pháp lý vững mạnh hơn, đáp ứng yêu cầu của bối cảnh mới.
PGS.TS Lạng cho rằng, các nghị quyết quan trọng của Đảng cho thấy, năng lượng là ngành công nghiệp nền tảng, quyết định vị thế công nghiệp và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Một quốc gia không thể phát triển công nghiệp, càng không thể duy trì tăng trưởng bền vững nếu thiếu một hệ thống năng lượng vững chắc.
Bởi vậy, việc chỉ nhìn nhận trong hai chữ “dầu khí” là chưa đúng với vai trò và càng chưa đủ để phản ánh phạm vi hoạt động của Tập đoàn trong chuỗi công nghiệp năng lượng.
“Để đưa ra một quyết định khoan thăm dò hay khai thác, Petrovietnam phải trải qua một quá trình cực kỳ phức tạp gồm thẩm lượng, khảo sát địa chấn, mô phỏng mỏ, phân tích tín hiệu địa chất, tính toán rủi ro vận hành... Phía sau mỗi giếng khoan là hàng chục năm nghiên cứu, hàng nghìn giờ xử lý dữ liệu, vô số mô hình tính toán. Khai thác dầu khí vì vậy không bao giờ được phép hiểu là “múc dầu lên bán”, mà là sự kết hợp tinh vi của nhiều ngành khoa học: địa chất, vật lý, hóa học, kỹ thuật khoan, cơ khí chế tạo, hàng hải, tự động hóa, điều khiển, tối ưu, vật liệu, trí tuệ nhân tạo… Cộng hưởng với đó là những hệ thống dịch vụ kỹ thuật, sửa chữa, bảo dưỡng, thiết kế, chế tạo giàn khoan, đường ống, thiết bị biển - tất cả hợp thành một chuỗi công nghiệp năng lượng có độ phức tạp thuộc hàng bậc nhất thế giới. Đó là lý do các tập đoàn dầu khí - năng lượng lớn trên thế giới như Saudi Aramco, Petronas… đều sở hữu giá trị thị trường khổng lồ. Chuỗi giá trị năng lượng luôn là nơi thử thách năng lực công nghệ và sức sáng tạo của một quốc gia”, ông phân tích.
Từ khai thác tài nguyên đến kiến tạo năng lượng quốc gia
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng nhìn nhận, trong kỷ nguyên chuyển dịch năng lượng toàn cầu, Petrovietnam phải được nhìn nhận như một tập đoàn công nghiệp - năng lượng quốc gia, bao trùm tất cả các phân ngành năng lượng, từ khai thác, chế biến, vận hành, phân phối đến nghiên cứu công nghệ mới, năng lượng mới, năng lượng tái tạo...
Petrovietnam trong suốt hành trình gần 50 năm qua đã phát triển vượt xa phạm vi của một doanh nghiệp “dầu khí”. Tập đoàn đã thực hiện xuất sắc sứ mệnh lịch sử là bảo đảm đủ năng lượng cho nền kinh tế, giúp đất nước vượt qua nhiều cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu. Nhưng quan trọng hơn, trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hướng tới nền kinh tế xanh - thông minh, Petrovietnam đã chủ động với vai trò “nhà kiến tạo năng lượng”. Khái niệm này, theo PGS.TS Lạng, tức là Petrovietnam mang trọng trách của tầm nhìn chiến lược: chủ động xây dựng một hệ sinh thái năng lượng mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo nền tảng cho phát triển bền vững và tăng cường sức cạnh tranh quốc gia.
Dấu hiệu của sự trưởng thành chính là việc vượt qua khai thác thô để tiến tới chế biến sâu, phát triển công nghiệp lọc hóa dầu (Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn) mang lại giá trị cao cho nền kinh tế; phát triển các nhà máy điện (phần lớn là điện khí), các nhà máy đạm với công nghệ ngày càng hiện đại (Nhà máy đạm Phú Mỹ, Nhà máy Đạm Cà Mau); ngoài ra, còn góp mặt trong các lĩnh vực trọng yếu của đời sống như sơ xợi, hóa chất. Không dừng lại ở đó, trong lĩnh vực chế tạo, lắp đặt giàn khoan, tàu biển, công trình biển, logistics biển..., Petrovietnam cũng nổi lên với nhiều đơn vị uy tín được đánh giá cao trong và ngoài nước.
Từ thực tiễn hoạt động có thể thấy, Petrovietnam đã chủ động mở rộng mạnh mẽ sang các ngành khoa học công nghiệp năng lượng: khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG), năng lượng tái tạo, hydrogen, ammonia xanh, điện gió ngoài khơi, mới nhất là điện hạt nhân. Các dự án điện khí LNG Nhơn Trạch 3&4, chuỗi khí điện Lô B - Ô Môn, các hợp đồng chế tạo chân đế và trạm biến áp điện gió ngoài khơi cung ứng cho các doanh nghiệp quốc tế… cho thấy Tập đoàn đang dịch chuyển mô hình từ khai thác tài nguyên sang sở hữu toàn bộ chuỗi công nghiệp năng lượng từ truyền thống đến tương lai.
Petrovietnam đang kiến tạo các mô hình ngành công nghiệp trong năng lượng, thúc đẩy nghiên cứu, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển vật liệu mới, sản phẩm mới, xây dựng hạ tầng số hóa với mô hình các nhà máy thông minh, hướng đến các Trung tâm Công nghiệp năng lượng sinh thái Petrovietnam. Tất cả những điều đó định vị Petrovietnam ở vị trí trung tâm của chuỗi giá trị công nghiệp năng lượng quốc gia, đồng thời là lực lượng nòng cốt trong tiến trình chuyển dịch sang kinh tế xanh.
Cơ đồ từ mồ hôi công sức của các thế hệ người lao động
Trong phân tích của PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, Petrovietnam đang bước những bước đi quan trọng để hình thành chuỗi công nghiệp - năng lượng một cách hoàn chỉnh. Ông cho rằng Tập đoàn đã và đang đi đúng hướng với ba đột phá chiến lược: đột phá về thể chế, đột phá về công nghệ và đột phá về hạ tầng.
Trong đó, đột phá về thể chế thể hiện ở tầm nhìn mới, chuyển từ “Tập đoàn Dầu khí” sang “Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia”, đồng thời tái cấu trúc bộ máy, chiến lược, mô hình vận hành. Đột phá về công nghệ nằm ở việc đầu tư lớn vào công nghệ lọc - hóa dầu, khí hóa lỏng, công nghiệp dịch vụ, công nghệ năng lượng mới, trí tuệ nhân tạo trong khai thác, mô phỏng mỏ, số hóa hoạt động. Đột phá về hạ tầng là việc phát triển hệ thống khí - điện - dầu đồng bộ, mở rộng mạng lưới đường ống, xây dựng hệ thống LNG quốc gia, phát triển hạ tầng nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao công nghệ. Tất cả được triển khai không chỉ để đón đầu xu hướng năng lượng xanh, mà còn để tránh đi vào bài học “lời nguyền tài nguyên” - một cảnh báo mà nhiều quốc gia giàu tài nguyên đã phải trả giá.
Để bắt kịp xu hướng chuyển dịch năng lượng toàn cầu, Việt Nam đặt mục tiêu cao về tỷ trọng năng lượng sạch. Điều đó đòi hỏi Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng của quốc gia phải vừa vận hành hiệu quả các lĩnh vực truyền thống, vừa đi đầu trong phát triển năng lượng tái tạo, hydrogen, LNG, các dạng năng lượng sạch khác, đồng thời xây dựng một hệ thống sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Theo PGS.TS Lạng, điều này không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn là thước đo của một quốc gia văn minh, nơi năng lượng sạch quyết định nền kinh tế xanh hay nâu. Trong đó, những tập đoàn nhà nước trụ cột như Petrovietnam cần đóng vai trò tiên phong.
Hơn nữa, vị chuyên gia này cho rằng Petrovietnam đang đứng trước cơ hội để bứt phá thành một tập đoàn năng lượng tầm khu vực. Bởi ở đây hội tụ những nền tảng quan trọng nhất: tinh thần tự lực - tự cường; khả năng sáng tạo trong nghiên cứu và làm chủ công nghệ; hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật quy mô lớn; đội ngũ nhân lực chất lượng cao; đặc biệt là tư duy số hóa toàn diện trong vận hành, đổi mới sáng tạo, xanh hóa bền vững.
Tập đoàn không chỉ khai thác tài nguyên trong nước mà còn mở rộng đầu tư ra nước ngoài, đẩy mạnh kinh doanh quốc tế, hợp tác với các tập đoàn năng lượng hàng đầu để tiếp cận tri thức mới. Những bước đi ấy đang đưa Petrovietnam tiến gần hơn tới chuẩn năng lượng hiện đại của thế giới hiệu quả hơn và bền vững hơn.
Nhìn lại chặng đường đã qua, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cho rằng ít ngành nào thầm lặng, vất vả và đóng góp nhiều như Petrovietnam. Những cuộc khảo sát địa chấn, những giàn khoan giữa trùng khơi, những đường ống dưới đáy biển, những nhà máy lọc dầu, nhà máy điện, nhà máy đạm vận hành liên tục ngày đêm - tất cả là mồ hôi, trí tuệ và sự hy sinh của hàng vạn người lao động Petrovietnam. Cơ đồ Petrovietnam hôm nay vì vậy không chỉ là những con số kinh tế, mà còn là biểu tượng của ý chí vượt khó, của tinh thần độc lập, tự chủ và của khát vọng vươn tầm quốc gia.
|
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Petrovietnam đã trải qua 50 năm đồng hành cùng với đất nước, là động lực phát triển kinh tế, xã hội đất nước thông qua thực hiện sứ mệnh bảo đảm “5 An”: an ninh năng lượng, an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh quốc phòng và chủ quyền quốc gia trên biển, đồng thời góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Từ việc thực hiện sứ mệnh 5 “An” đó, Petrovietnam đã khẳng định uy tín, vị thế của một Tập đoàn kinh tế hàng đầu đất nước với thành tựu “05 Nhất”: Doanh nghiệp có quy mô lớn nhất, với tổng tài sản hợp nhất vượt 1 triệu tỷ đồng, vốn chủ sở hữu hơn 556 nghìn tỷ đồng. Là đơn vị có đóng góp ngân sách cao nhất, với bình quân đạt 160 nghìn tỷ đồng/năm trong những năm gần đây, chiếm tới 80,3% tổng số nộp ngân sách của 18 Tập đoàn, Tổng công ty trong khối doanh nghiệp nhà nước; Có lợi nhuận cao nhất, khi giai đoạn 2020–2025 đạt tới 316 nghìn tỷ đồng, tương đương bình quân 2,2 tỷ USD/năm. Là doanh nghiệp duy nhất đạt và đạt nhiều giải thưởng cao quý về khoa học – công nghệ, trong đó có 6 giải thưởng Hồ Chí Minh và 4 giải thưởng Nhà nước, cùng hàng chục sáng chế trong nước và quốc tế uy tín. Đặc biệt, là doanh nghiệp dẫn đầu đạt mức cao nhất trong hoạt động an sinh xã hội, chỉ riêng giai đoạn 2020–2025 đã dành hơn 5,13 nghìn tỷ đồng. |